Như Vậy Nhất Tâm Cầu Cõi Tịnh, Quyết Định Vãng Sanh Cõi An Lạc. Giả Sử Đại Hỏa Trọn Tam Thiên, Nương Oai Đức Phật Vượt Qua Được

NPSTD7

 

Như Vậy Nhất Tâm Cầu Cõi Tịnh, Quyết Định Vãng Sanh Cõi An Lạc. Giả Sử Đại Hỏa Trọn Tam Thiên, Nương Oai Đức Phật Vượt Qua Được

Chánh kinh:

Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết tụng viết:
Nhược bất vãng tích tu phước huệ
Ư thử chánh pháp bất năng văn
Dĩ tằng cúng dường chư Như Lai
Tắc năng hoan hỷ tín thử sự
Ác kiêu giải đãi cập tà kiến
Nan tín Như Lai vi diệu pháp
Thí như manh nhân hằng xử ám
Bất năng khai đạo ư tha lộ

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bèn nói kệ tụng:
- Xưa kia nếu chẳng tu phước huệ
Thì chẳng được nghe chánh pháp này
Ðã từng cúng dường các Như Lai
Mới hoan hỷ tin nổi sự này
Ác, kiêu, biếng nhác và tà kiến
Khó tin Như Lai vi diệu pháp
Như kẻ đui ở mãi trong tối
Chẳng thể chỉ đường cho kẻ khác
Giải:
Bốn câu đầu thể hiện ý nghĩa tên phẩm này “phước huệ thỉ văn” (phước huệ mới được nghe). Ðây cũng chính là như trong kinh đã dạy: “Đương hữu chúng sanh, thực chư thiện bổn, dĩ tằng cúng dường vô lượng chư Phật, do bỉ Như Lai gia oai lực cố, năng đắc như thị quảng đại pháp môn, nhiếp thủ thọ trì” (Nếu có chúng sanh trồng các cội lành, đã từng cúng dường Vô Lượng Thọ Phật, do oai lực của đức Như Lai ấy gia bị nên mới được pháp môn rộng lớn như thế này nhiếp thủ, thọ trì).
“Thực chư thiện bổn” (Trồng các cội lành) trong đoạn kinh trên đây chính là “vãng tích tu phước huệ” (xưa kia tu phước huệ). Nếu trước đã chẳng tu sẽ “ư thử chánh pháp bất năng văn” (chẳng được nghe chánh pháp này).
“Dĩ tằng cúng dường chư Như Lai” (Đã từng cúng dường các Như Lai) chính là như trong đoạn kinh trên nói: “Dĩ tằng cúng dường vô lượng chư Phật” (Đã từng cúng dường vô lượng chư Phật). Người như vậy rộng tu cội lành, lại được oai lực của đức Như Lai gia bị nên “tắc năng hoan hỷ tín thử sự” (thì mới có thể hoan hỷ tin tưởng chuyện này).
Kinh Kim Cang nói:
“Như Lai diệt hậu, hậu ngũ bách tuế, hữu trì giới tu phước giả, ư thử chương cú năng sanh tín tâm, dĩ thử vi thực, đương tri thị nhân, bất ư nhất Phật, nhị Phật, tam tứ ngũ Phật nhi chủng thiện căn, dĩ ư vô lượng thiên vạn Phật sở chủng chư thiện căn” (Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau đó có kẻ trì giới, tu phước, đối với chương cú này mà sanh nổi lòng tin, coi đó là thật thì nên biết là người ấy chẳng phải đã gieo trồng thiện căn ở nơi một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức Phật, mà là đã từng ở nơi vô lượng trăm vạn đức Phật gieo các căn lành).
Vì thế, người nghe được pháp môn Tịnh Ðộ tối cực viên đốn, phương tiện rốt ráo này, nghe xong hoan hỷ tin nhận thì là đã từng tu phước, tu huệ, trồng các căn lành nơi vô lượng Phật.
Trái lại, hết thảy những kẻ ác trược, kiêu mạn, biếng nhác và tà kiến sẽ chẳng thể tin nổi pháp này; khác nào kẻ đui mù thường sống trong bóng tối, tự mình chẳng biết đường thì làm sao dẫn dắt người khác đi theo đường chánh cho được!


Chánh kinh:
Duy tằng ư Phật thực chúng thiện
Cứu thế chi hạnh phương năng tu
Văn dĩ thọ trì cập thư tả
Độc tụng, tán diễn, tinh cúng dường
Như thị nhất tâm cầu tịnh phương
Quyết định vãng sanh Cực Lạc quốc
Giả sử đại hỏa mãn tam thiên
Thừa Phật oai đức tất năng siêu
Chỉ từng nơi Phật gieo các thiện
Thì mới tu nổi hạnh cứu đời
Nghe xong thọ trì và biên chép
Ðọc, tụng, khen, giảng và cúng dường
Nhất tâm như vậy cầu cõi tịnh
Quyết định vãng sanh cõi An Lạc
Giả sử đại hỏa trọn tam thiên
Nương oai đức Phật vượt qua được
Giải:
Chỉ có hạng người đã từng ở nơi vô lượng đức Phật trồng nhiều cội lành lớn lao mới có thể tu tập hạnh cứu độ khắp hết thảy thế gian này. “Cứu thế chi hạnh” (hạnh cứu đời) chính là như kinh này đã nói:
Hết thảy hàm linh trong đời tương lai đều nhờ vào pháp này mà được độ thoát. Ai muốn tự cứu và cứu khắp hết thế gian thì đều phải tu hạnh cứu độ thế gian đó. Cái hạnh ấy chính là như đoạn kệ tiếp đó đã nói: “Văn dĩ thọ trì cập thư tả” (Nghe rồi thọ trì và biên chép)… cho đến “như thị nhất tâm cầu tịnh phương” (như thế nhất tâm cầu cõi tịnh).
Ðoạn trên là nói về việc nghe và tin kinh này, đoạn kệ đây giảng rộng ý nghĩa: Từ nghe và tin hãy nên phát khởi hạnh nguyện. “Thọ” (受) là tin nhận, “trì” (持) là gìn giữ. Phụng hành đúng theo lời dạy, phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm A Di Ðà Phật. Ðồng thời còn biên chép, đọc tụng, khen ngợi, diễn nói, cúng dường kinh Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác này. Đối với các thứ công đức thù thắng nhiệm mầu như vậy đều dùng tâm chí thành, tâm bất nhị để hồi hướng Tịnh Ðộ, cầu sanh Cực Lạc nên bảo là “như thị nhất tâm cầu tịnh phương” (như vậy nhất tâm cầu cõi tịnh). Phật liền thọ ký rằng: “Quyết định vãng sanh Cực Lạc quốc” (Quyết định vãng sanh cõi Cực Lạc).
Hạng người như thế lúc lâm chung “giả sử tam thiên đại thiên thế giới mãn trung đại hỏa, diệc năng siêu quá, sanh bỉ quốc độ” (giả sử cả tam thiên đại thiên thế giới đều ngập tràn đại hỏa vẫn có thể vượt qua sanh về cõi ấy) cho nên mới nói: “Giả sử đại hỏa mãn tam thiên, thừa Phật oai đức tất năng siêu” (Giả sử đại hỏa trọn tam thiên, nương oai đức Phật ắt sẽ vượt qua được).

 

dd2-tile

Ảnh: Một số thiên tai, nhân họa trên quả đất này

Câu: Vì thế, người nghe được pháp môn Tịnh Ðộ tối cực viên đốn, phương tiện rốt ráo này, nghe xong hoan hỷ tin nhận thì là đã từng tu phước, tu huệ, trồng các căn lành nơi vô lượng Phật.

Đúng là quy luật Nhân Quả, có gieo thì mới có gặt, có tu thì mới có được, nhận [nghe, tin]. Được cái quả càng viên mãn thì cái nhân gieo cũng phải thật sâu dày. Bởi vậy, chúng ta đây nếu có một chút tin nhận và chịu hành trì Pháp môn này thì cũng hiểu là đã từng trồng vô lượng căn lành, cúng dường vô lượng Phật [mới được như ngày hôm nay]. Thế nên hãy trân quý cái nhân duyên này.

Thật ra, tu hành [Pháp môn này] có khó không Quý vị? Thật sự, cái khó nó nằm ở niềm tin. Có niềm tin sẽ có tất cả [chịu nghe, chịu hành, chịu xả ly, chân thật cầu sanh về]. Mà muốn có niềm tin thì không phải một sớm một chiều mà có ngay được, nó thuộc về thiện căn của mỗi người, cần phải trải qua một quá trình huân tu lâu dài, từ nhiều đời nhiều kiếp trước và đời này.

Câu: Trái lại, hết thảy những kẻ ác trược, kiêu mạn, biếng nhác và tà kiến sẽ chẳng thể tin nổi pháp này; khác nào kẻ đui mù thường sống trong bóng tối, tự mình chẳng biết đường thì làm sao dẫn dắt người khác đi theo đường chánh cho được!

Pháp môn này là Pháp môn cậy vào Tha Lực, vì thế Đức Phật nói rằng: "những kẻ ác trược, kiêu mạn, biếng nhác và tà kiến sẽ chẳng thể tin nổi pháp này". Những kẻ làm ác từ trước, nay biết hồi đầu, sửa đổi hướng thượng thì được, còn như tiếp tục mặc tình tạo tác, hay những kẻ kiêu mạn, biếng nhác , chẳng chịu tu sửa, chẳng chịu phát tâm cải đổi, vẫn cứ y như tập khí cũ thì thôi... chịu thua, không thể phát khởi lòng tin chân thật được, [vì vậy] cũng không cách gì 'nhập môn' này được. Đặc biệt, tu tập Pháp môn này mà vẫn còn cái tâm "kiêu mạn", tự cho rằng mình 'ngon, giỏi', thích cậy vào tự lực [hay những thế lực gì đó như lực đại chúng, đồng tu, thiện tri thức...], thì càng khó thành tựu. Vì sao vậy? Bởi như vậy là tu không đúng pháp. Phật dạy chúng ta hãy tin tưởng, nương cậy vào Nguyện lực của Phật, Phật sẽ cứu, chúng ta lại [tự kiêu] đi nương cậy vào sức mình hay sức người thì thôi rồi... Niềm tin đặt không đúng nơi đúng chỗ rồi. Phật luôn muốn cứu vớt còn ta thì lại... ngoảnh mặt làm ngơ, thế thì làm sao cảm ứng đạo giao và được Phật đến rước đây. Các trường hợp gặp ách nạn lúc lâm chung toàn do điều này cả, thiếu sự che chở, bảo hộ, gia trì của Tha Lực Đại Đạo. Rất nguy hiểm! Thế nên, những nhân duyên đó [lực đại chúng, đồng tu hộ niệm, thiện tri thức khai thị...] hãy để Phật tùy theo duyên phước mỗi người mà sắp đặt cho [rất viên mãn!], chúng ta không nên cưỡng cầu, mà chỉ một lòng một dạ tin tưởng, nương cậy vào Phật lực từ bi cứu độ mà thôi, ra sức hành trì, dụng công niệm Phật, chân thật cầu sanh về cõi Tịnh.

Đoạn cuối Kinh văn, Đức Phật Ngài nêu một thí dụ [giả sử] để cho chúng ta thấy được [phần nào] sức mạnh của Bổn Nguyện, để giúp chúng sanh phát khởi được lòng tin chân thật vào Tha Lực. Hành giả chúng ta đây mặc dù rất nhiều người tu hành rất tinh tấn, dũng mãnh, nhiều năm, nhưng nói tới 'lâm chung', 'thọ mạng đến' lại sợ! Sợ điều gì? Sợ lúc đó cận tử nghiệp bủa vây, không giữ được chánh niệm, Phật không đến rước... Nói thật với Quý vị, nếu ai có lòng tin sâu, chắc, chẳng nghi về Tha Lực cứu độ, dẫu lúc đó ...trời sập, động đất, núi lửa, sóng thần, ôn dịch... xảy đến, Phật vẫn [kịp] đến che chở, gia hựu, và rước chúng ta về Cực Lạc. Chẳng tin sao? Đoạn Kinh văn trên làm chứng cho tất cả, dẫu có đại hỏa Tam thiên [đại thiên thế giới], Phật còn đến ứng cứu, huống hồ chỉ những tai ách trên quả địa cầu này, hay những nghiệp khổ bức bách gì đó của chúng sanh! Thế nên, hãy tin đi Quý vị! Tin tưởng [nương tựa vào đó], thì Phật sẽ đến rước về Cực Lạc, còn không [chịu] tin thì còn ở lại Ta Bà chịu khổ dài dài đấy.

Cuối cùng, có một chút vấn đề về 'văn tự, dịch thuật' ở đây [nhưng rất quan trọng].

Nguyên văn lời Kinh, Hán dịch:

"Văn dĩ thọ trì cập thư tả

Độc tụng, tán diễn, tinh cúng dường
Như thị nhất tâm cầu tịnh phương"

Người dịch bản Chú Giải này dịch:

"Nghe xong thọ trì và biên chép

Ðọc, tụng, khen, giảng và cúng dường
Nhất tâm như vậy cầu cõi tịnh"

Rõ ràng, nếu dịch sát [và đúng] nghĩa phải là:

"Như vậy nhất tâm cầu cõi tịnh"

Nếu liễu nghĩa đầy đủ ra sẽ là:

"Nghe xong thọ trì và biên chép

Ðọc, tụng, khen, giảng và cúng dường
[Hành trì] như vậy nhất tâm cầu cõi tịnh"

Đức Phật ngài muốn nhấn mạnh ở đây là phải "nhất tâm cầu cõi Tịnh", tức Tín tâm Nguyện tâm kiên cố chắc chắn, đầy đủ chân thật, không bị dao động, lui sụt hay hồ nghi; còn hành trì thì tùy căn cơ chúng sanh mà: thọ trì, biên chép, đọc, tụng, khen, giảng, cúng dường... rồi một lòng hồi hướng cầu sanh về cõi Tịnh. [Nhưng đến đoạn cuối Đức Phật ngài đặc biệt nhấn mạnh đến hạnh "thọ trì" [tin nhận, chuyên niệm Phật] "Ưng thường niệm Phật nhi sanh hỷ" (Nên thường niệm Phật, sanh hoan hỷ)].

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 47. Phước Huệ Thỉ Văn

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.