Chánh kinh:
Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ- kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện hai mươi tám: Nước không sự bất thiện; nguyện hai mươi chín: Trụ Chánh Định Tụ; nguyện ba mươi: Vui như Lậu Tận; nguyện ba mươi mốt: Chẳng tham chấp thân)
Giải:
Nguyện hai mươi tám đến nguyện ba mươi mốt trong chương này là những nguyện dành cho chúng sanh cõi Cực Lạc, thể hiện công đức thụ dụng của chúng sanh trong cõi Cực Lạc. Chương này gồm bốn nguyện. “Quốc trung vô bất thiện danh” (Trong nước không có danh từ bất thiện) là nguyện hai mươi tám “nước không có sự bất thiện”; từ đó đến chữ “trụ ư Định Tụ” (trụ trong Định Tụ) là nguyện hai mươi chín: “Trụ Chánh Định Tụ”; từ đấy đến chữ “do như Lậu Tận tỳ-kheo” (giống như Lậu Tận tỳ-kheo) là nguyện ba mươi: “Vui như Lậu Tận”; phần còn lại là nguyện ba mươi mốt: “Chẳng tham đắm thân”.
Nguyện hai mươi tám “nước không có danh từ bất thiện” ý nói: Cõi Cực Lạc còn không có danh từ bất thiện, huống là thật có sự bất thiện? Long Thọ Ðại Sĩ dạy: “Cõi đức Phật ấy không có danh từ ác, cũng không có nỗi sợ ác đạo, nữ nhân; cho đến chẳng có ác tri thức và các đường ác”, nghĩa là: Cõi Cực Lạc không có các điều bất thiện. Vãng Sanh Luận lại nói: “Nên biết rằng quả báo Tịnh Ðộ lìa khỏi hai thứ tỵ hiềm: một là Thể, hai là Danh. Thể có ba thứ: Một là người Nhị Thừa, hai là nữ nhân, ba là người chẳng đủ các căn. Do không có ba lỗi này nên gọi là lìa được cái Thể của tỵ hiềm. Danh cũng có ba thứ, chẳng những không có ba Thể mà còn chẳng nghe ba thứ danh từ Nhị Thừa, nữ nhân, các căn chẳng đủ, nên lìa được cái danh của tỵ hiềm”. Câu “cái danh của tỵ hiềm” được dùng trong Vãng Sanh Luận ám chỉ câu “chẳng có danh từ bất thiện” trong lời nguyện ở đây. Sách Sớ Sao lại bảo: “Do tai chỉ nghe vạn đức hồng danh của chư Phật, các thứ danh hiệu tốt lành của Bồ Tát, Thanh Văn và chư thiên, thượng nhân, nên các danh tự ba ác chưa từng nghe lọt qua tai”. Tai chẳng nghe tiếng ác nên bảo là “vô bất thiện danh” (chẳng có danh từ bất thiện).
Hơn nữa, kinh A Di Ðà dạy: “Kỳ Phật quốc độ, thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thực! Thị chư chúng điểu giai thị A Di Đà Phật dục linh pháp âm tuyên lưu biến hóa sở tác” (Cõi nước Phật ấy còn không có cái tên ác đạo, huống là thật có! Các loài chim ấy đều do A Di Ðà Phật vì muốn khiến cho pháp âm được tuyên lưu nên biến hiện ra).
Linh Phong đại sư đã giảng câu này rất tường tận trong sách Di Ðà Yếu Giải như sau:
“Hỏi: Các loài như Bạch Hạc v.v... chẳng phải là tên ác đạo hay sao?
Ðáp: Chúng đã chẳng phải là tội báo thì mỗi mỗi danh tự đều diễn bày công đức của Như Lai, nghĩa là: Cứu cánh Bạch Hạc v.v... không danh tự nào chẳng phải là tiếng tôn xưng tánh đức, há có phải là ác danh đâu!”.
Lại như Quán Kinh dạy: “Như Ý Châu Vương dũng xuất kim sắc vi diệu quang minh, kỳ quang hóa vi bách bảo sắc điểu” (Như Ý Châu Vương tỏa ra quang minh kim sắc vi diệu, quang minh ấy hóa ra chim có màu như trăm thứ báu) thì y báo, chánh báo cõi Cực Lạc đều được trang nghiêm bởi Quả Giác của Như Lai. Các loài chim ấy đều do Phật Di Ðà biến hóa ra. Cõi ấy mỗi sắc, mỗi hương, mỗi hạt bụi, mỗi danh từ không thứ nào chẳng là Trung Ðạo, đều là toàn thể đại dụng của pháp giới chẳng thể nghĩ bàn. Vì vậy, mỗi một danh tự trong cõi nước kia đều thể hiện Tánh Đức của Như Lai.
Nguyện hai mươi chín: “Sở hữu chúng sanh sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ” (Tất cả chúng sanh sanh trong cõi tôi đều đồng một tâm, trụ trong Ðịnh Tụ) là kết quả của nguyện thứ năm “không sai biệt”: Sanh trong cõi ấy, hình mạo không khác nhau, đều giống như nhau. Hình mạo đã giống nhau, tâm cũng giống hệt. Tâm đã đồng nhất nên cùng trụ trong Ðịnh Tụ. Ðịnh Tụ nghĩa là Chánh Ðịnh Tụ, là một trong Tam Tụ. Tam Tụ bao gồm hết thảy chúng sanh. Tụ (聚) có nghĩa là những gì giống nhau được gom lại. Chúng sanh được chia làm ba loại nên gọi là Tam Tụ. Cả Ðại Thừa lẫn Tiểu Thừa đều nói đến Tam Tụ, nhưng có nhiều thuyết:
1. Thuyết thứ nhất: Tam Tụ là:
* Chánh Định Tụ gồm những người nhất định chứng ngộ.
* Tà Định Tụ là những kẻ hoàn toàn chẳng chứng ngộ.
* Bất Định Tụ: Ở giữa hai hạng trên, hữu duyên thì chứng ngộ, vô duyên ắt chẳng chứng ngộ.
2. Thuyết thứ hai là như sách Hội Sớ nói: “Ðịnh Tụ nói đầy đủ là Chánh Ðịnh Tụ, cũng gọi là Bất Thoái Chuyển, tức là Bồ Tát A Bệ Bạt Trí. Vì sao gọi là Chánh Định? Phàm hết thảy chúng sanh tuy căn tánh muôn phần sai khác, nhưng nếu phân loại thì chẳng ngoài ba thứ: Ắt đọa trong sáu đường là Tà Định, nếu thăng trầm tùy duyên thì là Bất Định, quyết định đạt đến Bồ Ðề thì gọi là Chánh Định”.
Phẩm hai mươi hai kinh này chép: “Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh, giai tất trụ ư Chánh Định chi tụ, quyết định chứng ư A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề” (Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân hoặc đã sanh, hoặc sẽ sanh thảy đều trụ trong Chánh Ðịnh Tụ (Câu này trích từ bản Đường dịch), quyết định chứng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề). Như vậy, được sanh về cõi kia liền thuộc vào Chánh Định Tụ, ắt chứng quả Ðại Niết Bàn.
Do đó, ngài Thiện Ðạo nói: “Chẳng đoạn phiền não mà đắc Niết Bàn, điều này thể hiện tánh đức tự nhiên của cõi An Lạc vậy”. Long Thọ Ðại Sĩ cũng nói: “Dùng nhân duyên tin Phật nguyện sanh Tịnh Ðộ, khởi tâm lập đức, tu các hạnh nghiệp. Do nguyện lực của Phật nên liền vãng sanh. Do Phật lực gìn giữ nên liền nhập Ðại Thừa Chánh Định Tụ. Chánh Ðịnh Tụ chính là địa vị A Bệ Bạt Trí Bất Thoái vậy”. (Ngài Thiện Ðạo còn căn cứ vào lời nguyện này và bản Ðường dịch bảo rằng nguyện này còn ẩn tàng mật nghĩa: Ngay trong hiện đời chứng được Bất Thoái. Kinh nói “nhược đương sanh” (hoặc sẽ sanh) là chỉ người đang cầu vãng sanh cũng được nhập Chánh Định Tụ. Ðây là một thuyết rất kỳ đặc, trong phẩm hai mươi hai, tôi sẽ trình bày tường tận).
Câu “vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc do như Lậu Tận tỳ-kheo” (vĩnh viễn xa lìa nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thụ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo) chính là nguyện ba mươi “vui như Lậu Tận”. “Nhiệt não” nghĩa là bị sự rất khổ bức bách khiến thân bức rức, tâm phiền muộn, nên gọi là nhiệt não. Phẩm Tín Giải của kinh Pháp Hoa bảo: “Dĩ tam khổ cố, ư sanh tử trung, thọ chư nhiệt não” (Do vì ba khổ nên ở trong sanh tử, chịu các nhiệt não). Nay trong cõi Cực Lạc “vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc” (không có các khổ, chỉ hưởng các điều vui) nên vĩnh viễn xa lìa nhiệt não. “Thanh lương” là thanh tịnh mát mẻ, trái nghĩa với “nhiệt não”. Quyển hai mươi hai của luận Ðại Trí Ðộ giảng: “Người bị cơn nóng dữ làm khổ nếu được vào trong ao trong mát thì mát dịu, thư thái, không bị nhiệt não nữa”. Ao trong mát (thanh lương trì) ví cho Niết Bàn. Nay người vãng sanh được vào trong ao thanh lương lớn của cõi kia, nên đều “tâm đắc thanh lương” (tâm được thanh lương).
Chữ Lậu (漏) trong “Lậu Tận tỳ-kheo” có nghĩa là rò rỉ, rịn chảy. Lậu là tên khác của phiền não. Phiền não hiện hành khiến tâm luôn bị rò rỉ, lưu tán chẳng ngớt nên gọi phiền não là Lậu. Lại do sáu cái cửa: mắt, mũi v.v… ngày đêm thường tuôn tràn phiền não nên gọi là Lậu. Dùng thánh trí để đoạn sạch các phiền não ấy thì gọi là Lậu Tận. Năm thứ đầu của Lục Thông là Hữu Lậu Thông, riêng mình Lậu Tận Thông là Vô Lậu Thông. Tỳ-kheo đoạn sạch phiền não được xưng là Lậu Tận tỳ-kheo, tức là A La Hán.
Pháp Tạng Bồ Tát nguyện chúng sanh trong cõi Ngài hưởng vui vô cực, nhưng với những sự vui sướng ấy, tâm chẳng chấp trước, như bậc A La Hán, nên bảo là “do như Lậu Tận tỳ-kheo” (giống như tỳ-kheo Lậu Tận). Dùng hình ảnh này để ví họ hưởng thụ các sự vui, nhưng không nghĩ là vui.
Nguyện ba mươi mốt là “chẳng tham chấp thân”: Không khởi tưởng niệm tham chấp thân. Phần nhiều phàm phu tu hành hay bị mắc vào Thân Kiến. Thân Kiến là kiến chấp lớn nhất trong Kiến Hoặc. Kiến Hoặc chẳng đoạn, chẳng thể dự vào dòng thánh; tất nhiên thường lưu chuyển trong sanh tử, không mong ngày ra. Tham chấp thân là chấp có thân ta nên tham đắm, so đo. Sách Hội Sớ giảng: “Vọng chấp tự thân, so đo yêu, ghét, thuận, nghịch, thì gọi là tham chấp. Ðấy gọi là Ngã Chấp”: Phàm phu vọng tưởng thân mình chính là Ngã rồi tham chấp, so đo, ham thích, giữ gìn, bồi bổ, thuận với mình thì sanh lòng yêu thích, hễ trái nghịch thì sanh giận dữ. Toàn thể các thứ phân biệt, tham đắm ấy đều là phiền não.
Sách Vãng Sanh Luận bảo: “Xa lìa ngã tâm, tham đắm thân mình, xa lìa tâm chẳng an chúng sanh, xa lìa tâm cúng dường cung kính thân mình. Cần biết rằng: Ba pháp ấy đều chướng ngại Bồ Ðề tâm nên phải xa lìa”. Ý nói: Cả ba cái tâm tham chấp tự thân, tâm làm cho chúng sanh chẳng được yên ổn, tâm cúng dường cung kính thân mình đều chướng ngại tâm Bồ Ðề. Kinh này lấy “phát tâm Bồ Ðề, nhất hướng chuyên niệm” làm tông; nếu tâm Bồ Ðề bị chướng ngại ắt chẳng được vãng sanh nên Phật nguyện rằng: “Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác” (Nếu khởi niệm tưởng tham chấp thân mình thì chẳng lấy Chánh Giác).
Ảnh minh họa: Một góc ao Thất Bảo cõi Cực Lạc (Nguồn: Thư Viện Hoa Sen)
Đoạn đầu: Nguyện hai mươi tám “nước không có danh từ bất thiện” ý nói: Cõi Cực Lạc còn không có danh từ bất thiện, huống là thật có sự bất thiện? Long Thọ Ðại Sĩ dạy: “Cõi đức Phật ấy không có danh từ ác, cũng không có nỗi sợ ác đạo, nữ nhân; cho đến chẳng có ác tri thức và các đường ác”, nghĩa là: Cõi Cực Lạc không có các điều bất thiện.
Cõi ấy không có nữ nhân, chỉ có nam nhi đại trượng phu. Tất cả nữ nhân vãng sanh về cõi ấy đều biến thành nam nhi cả. Đây là một trong những lời Nguyện của Phật. Vì sao vậy? Vì Ngài biết rõ, có nữ nhân tất có khổ, có rắc rối, có sanh tử, chỉ trong sanh tử mới [cần] có nữ nhân. Vì ở cõi ấy không còn sanh tử nữa nên [cần phải] dứt hẳn hình bóng nữ nhân.
Thật sự thì chúng ta thấy ở cõi Ta Bà này, người nữ chịu quá nhiều thiệt thòi so với nam giới, có nhiều nỗi khổ chỉ có ở người nữ, không có ở nam giới. Thế nên, Đức Phật Ngài đặc biệt xót thương thân phận nữ nhi nên lập hẳn một Đại Nguyện riêng, chỉ để độ nữ nhân [bên cạnh những Đại Nguyện bình đẳng khác], đó là Nguyện "Nhàm chán thân nữ chuyển thân nam". Do cũng vì phải thọ nhận nhiều nỗi cơ cực [đặc thù] mà nữ nhân thường phát tâm tu đạo nhiều hơn, vì thế số lượng thành tựu giải thoát cũng nhiều hơn nam giới, bởi có tu thì mới có đắc, 'ông tu ông đắc, bà tu bà đắc'. Vì vậy, trong cái nghịch nó có cái thuận trong ấy [và ngược lại].
Đoạn: Nguyện hai mươi chín: “Sở hữu chúng sanh sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ” (Tất cả chúng sanh sanh trong cõi tôi đều đồng một tâm, trụ trong Ðịnh Tụ).
Sách Hội Sớ nói: “Ðịnh Tụ nói đầy đủ là Chánh Ðịnh Tụ, cũng gọi là Bất Thoái Chuyển, tức là Bồ Tát A Bệ Bạt Trí".
Bồ Tát bất thoái tức là từ địa vị Thập Trụ trở lên. Chúng sanh được sanh về cõi ấy thì đạt ngay địa vị này. Tất cả đều là nhờ Nguyện lực đại từ đại bi của Phật. Nếu tu tự lực thì không biết trải qua bao nhiêu kiếp nữa để đạt cảnh giới ấy? Chắc phải mất vài Đại A-tăng-kỳ kiếp. Ấy là chưa kể còn bị thoái chuyển lên xuống nữa, không thể biết đến bao giờ!
Đoạn tiếp theo: Câu “vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc do như Lậu Tận tỳ-kheo” (vĩnh viễn xa lìa nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thụ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo) chính là nguyện ba mươi “vui như Lậu Tận”.
Để đắc "Lậu tận thông" thì phải bậc A La Hán trở lên [ra khỏi phàm phu, chứng Thánh], như thế sẽ không còn phiền não nữa [đoạn Kiến Tư Hoặc]. Chúng sanh cõi ấy vui nhưng không chấp vào sự vui ấy. Đây mới là niềm vui, an lạc chân thật. Chắc chắn nó phải từ tánh đức [tự tánh] lưu xuất ra, chẳng phải từ bên ngoài, nên chẳng còn chấp. Chúng ta ở cõi này nhiều khi cũng có vui, nhưng rồi lại qua rất nhanh, vậy nó là gì? từ đâu mà có? Câu trả lời là dành cho mỗi người vậy.
Đoạn: Nguyện ba mươi mốt là “chẳng tham chấp thân”: Không khởi tưởng niệm tham chấp thân. Phần nhiều phàm phu tu hành hay bị mắc vào Thân Kiến. Thân Kiến là kiến chấp lớn nhất trong Kiến Hoặc. Kiến Hoặc chẳng đoạn, chẳng thể dự vào dòng thánh; tất nhiên thường lưu chuyển trong sanh tử, không mong ngày ra.
Như trên đã nói, chỉ từ bậc A La hán trở lên mới đoạn sạch Phiền hoặc [Kiến Tư Hoặc, Tham sân si...]. Chúng sanh cõi ấy đã "đắc" được điều này. Mà để đắc điều này thì một trong những điều kiện đầu tiên đó là "chẳng tham chấp thân” [đoạn Thân Kiến]. Ai ai trong cõi ấy cũng đều đạt như vậy, bởi đó là Nguyện của Đức Phật.
Chúng sanh được sanh về cõi ấy thì phải có Tín Nguyện đầy đủ, trì danh hiệu Phật. Để Tín Nguyện đầy đủ thì lòng Tin phải chân thật, chẳng nghi; rồi Nguyện phải thiết tha, chẳng hư dối. Nếu còn tham chấp cái thân giả tạm này [tham sống, sợ chết] thì làm sao có Nguyện chân thật được. Thật tâm mình chẳng muốn [hay chưa muốn] đi mà đòi Phật rước về? Giả Tín hư Nguyện! Thế nên, Vô thượng Bồ Đề tâm [Tín Nguyện tâm] ắt không thể thiếu cho việc vãng sanh vậy.
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ (trích lục)
Phẩm 6. Phát Đại Thệ Nguyện
Ngài Hoàng Niệm Tổ