Đời này không liễu thoát sanh tử, đời sau rất nguy hiểm [hưởng si phước như Tần Cối,...]
Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn phổ độ chúng sanh, viên đốn, thẳng tắt, rộng lớn, giản dị nhất của Như Lai. Vì sao nói vậy? Do trong hết thảy pháp môn đều phải đoạn Kiến Hoặc và Tư Hoặc mới hòng liễu thoát sanh tử. Nhưng đoạn Kiến Hoặc giống như cắt ngang dòng nước rộng bốn mươi dặm, huống chi Tư Hoặc? Đoạn Kiến Hoặc liền chứng Sơ Quả. Nếu ước theo Viên Giáo thì là bậc Sơ Tín. Đoạn sạch Tư Hoặc liền chứng Tứ Quả, tức là Thất Tín trong Viên Giáo. Sơ Quả Sơ Tín vẫn còn sanh tử, Tứ Quả Thất Tín mới liễu thoát được. Nhưng Thiên Thai Trí Giả đại sư thị hiện thuộc vào địa vị Ngũ Phẩm. Tuy sở ngộ đã bằng với chư Phật, khuất phục trọn vẹn Ngũ Trụ phiền não, nhưng Kiến Hoặc vẫn chưa hề đoạn được. Thế nhưng Bổn Địa của đại sư thật sự chẳng thể suy lường, lâm chung chỉ nói mình chứng Ngũ Phẩm [là vì] Ngài lo sâu xa cho đời Mạt chẳng dốc sức đoạn Hoặc chứng Chân, chỉ lấy minh tâm kiến tánh làm chuyện rốt ráo. Minh tâm kiến tánh chính là đại triệt đại ngộ. Nếu là bậc tối thượng thượng căn thì hễ ngộ bèn chứng, nên liền giải quyết xong. Nếu không, dẫu biết được chuyện vị lai như sư Viên Trạch vẫn chẳng tránh khỏi bị thọ sanh lần nữa. Như Ngũ Tổ Giới lại sanh làm Tô Đông Pha, Thảo Đường Thanh lại sanh làm Lỗ Công, [tuy thế] vẫn chưa phải là quá tệ. Như sư Hải Ấn Tín trở thành con gái ông Châu Phòng Ngự, kể ra đã khó chịu đựng nổi. Ông Tăng núi Nhạn Đãng trở thành Tần Cối(1) thì thật đáng thương xót quá sức!
Bất luận Hoặc nghiệp dầy - mỏng, công phu cạn - sâu, lâm chung nhờ vào Phật từ lực [gia hựu, tiếp dẫn], đới nghiệp vãng sanh
Tự lực đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử khó khăn quá lắm! Những giáo lý tu chứng thông thường đức Như Lai đã nói trong cả một đời tuy là nhiều thứ pháp môn khác nhau, nhưng chẳng hề có chuyện còn đầy đủ Hoặc nghiệp lại có thể liễu sanh thoát tử! Chỉ có mình pháp môn Tịnh Độ, hễ có đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, dùng tâm chí thành trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương, bất luận Hoặc nghiệp dầy - mỏng, công phu cạn - sâu, đều trong lúc lâm chung nhờ vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh. Đã được vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, liễu sanh thoát tử. Từ đấy, dần dần tấn tu, liền tự chứng được Vô Sanh cho đến viên mãn Phật Quả.
Đại Bồ Tát muốn viên mãn Phật quả [thì sao]
Đây chính là pháp môn đặc biệt do Như Lai thương xót chúng sanh căn cơ kém hèn làm cho họ đều được ngay trong đời này nhanh chóng thoát luân hồi. Phải biết pháp môn Tịnh Độ thật ra để thâu nhiếp người căn cơ thượng thượng! Vì thế, Thiện Tài đã chứng Đẳng Giác, Phổ Hiền Bồ Tát còn dạy dùng mười đại nguyện vương hồi hướng vãng sanh ngõ hầu viên mãn Phật quả. Lại còn đem điều ấy khuyên khắp Hoa Tạng hải chúng. Do vậy, biết rằng: “Một pháp hồi hướng vãng sanh Tịnh Độ chính là bước cuối cùng để viên mãn Phật quả!”
[Có nên] cho rằng công phu của chính mình cạn mỏng, nghiệp lực sâu dầy, làm sao vãng sanh cho được?
Đời có kẻ cuồng chẳng xét kỹ giáo lý, thấy ngu phu ngu phụ đều có thể tu trì pháp này, bèn miệt thị là pháp Tiểu Thừa. Chẳng biết đây chính là pháp môn bậc nhất “thành thủy thành chung, một đời thành Phật” của kinh Hoa Nghiêm. Cũng có kẻ ngu tri kiến hẹp hòi, cho rằng công phu của chính mình cạn mỏng, nghiệp lực sâu dầy, làm sao vãng sanh cho được? Chẳng biết tâm tánh của chúng sanh và tâm tánh chư Phật không hai. Ngũ Nghịch, Thập Ác sắp đọa địa ngục, gặp thiện tri thức dạy cho niệm Phật hoặc đủ mười tiếng hoặc chỉ mấy tiếng rồi liền lâm chung còn được vãng sanh. Quán kinh nói thế, cớ sao không tin? Bọn họ còn vãng sanh, huống chi chúng ta dẫu có tội nghiệp, nhưng còn có chút công phu, so với phường Ngũ Nghịch, Thập Ác niệm mười tiếng hay mấy tiếng kia, đương nhiên còn cao hơn rất nhiều, cớ sao lại tự khinh, tự bỏ, đến nỗi đánh mất lợi ích vô thượng này!
Nếu xa xưa không tu phước huệ...
Như Lai gọi pháp môn Tịnh Độ này là “pháp khó tin” bởi lẽ pháp này hạ thủ dễ dàng nhưng thành công cao, dùng sức ít nhưng được hiệu quả nhanh chóng, viên đốn, thẳng tắt, rộng lớn, giản dị hơn hẳn những giáo lý thông thường trong cả một đời đức Phật giáo hóa. Nếu chẳng phải xưa đã có thiện căn, quyết khó thể tin nhận phụng hành. Tôi thường nói: “Chín pháp giới chúng sanh lìa môn này thì trên chẳng thể viên thành Phật đạo, mười phương chư Phật bỏ pháp này thì dưới chẳng thể lợi khắp quần manh”, đấy chính là sự thật vậy! Nay đang là lúc nào? Chính là thời đao binh, đói kém, tật dịch đều nhóm họp, tuy chưa đến nỗi là ba tiểu tai(2), nhưng cũng đã là hiện tượng của ba tiểu tai vậy!
Cư sĩ Hồ Thiên Bộc
Huống chi tà thuyết tung hoành, tri thức hiếm hoi, muốn nghe chánh pháp thật chẳng dễ gì! Có cư sĩ Hồ Thiên Bộc phát Bồ Đề tâm, dốc lòng tu Tịnh nghiệp, lại muốn cho đồng nhân ai nấy đều được lợi ích, bèn cực lực đề xướng, khuyên dạy. Đúng là lấy chuyện “giúp cho sự sanh trưởng của trời đất, thay Phật hoằng dương, giáo hóa” làm thiên chức! Người một phương nghe ông thuyết pháp, cảm thời thế này, khôn ngăn cái tâm chán lìa, ưa thích tràn trề nẩy sanh. Một người xướng, mọi người hòa, không đâu chẳng phục tùng. Do vậy, cư sĩ tự bỏ ra đất đai và quyên mộ thiện tín, lập Niệm Phật Đường, đào ao phóng sanh và lầu Tàng Kinh, Công Đức Đường, Hương Tích Trù (tức nhà bếp), Ứng Cúng Đường (trai đường), nghiễm nhiên từ mặt đất vọt lên một đại đạo tràng.
Thờ tượng đứng [của Tây Phương Tam Thánh]
Niệm Phật Đường thật rộng lớn, trong ấy thờ tượng đứng của Tây Phương Tam Thánh ngõ hầu hành nhân thường ngắm nhìn, lâm chung liền được tiếp dẫn. Ngay chính giữa lập tòa thuyết pháp, người nghe ngồi chung quanh. Dù đông đến ngàn người cũng chẳng chật chội, ngõ hầu người từ bốn phương tới cũng chẳng đến nỗi than thở vì chen chúc. Lầu Tàng Kinh thỉnh đủ kinh khắc từ các nơi cho những người phát tâm thọ trì, nghiên cứu. Công Đức Đường thì ghi đủ những số mục công đức của những người đã đóng góp. Lại còn lập đầy đủ các bài vị để người còn tăng phước tăng thọ, kẻ mất lên thẳng Liên Bang. Nhưng nếu đã chuyển pháp luân, không giúp thực luân (ăn uống) thì quyết khó thể ở lâu chẳng về. Do vậy, lập riêng Hương Tích Trù, Ứng Cúng Đường khiến cho người niệm Phật nghe pháp ai nấy đều được thỏa lòng vừa ý mới thôi. Ao Phóng Sanh ở trước pháp đường dành để nuôi những con vật suýt bị nấu nướng, chẳng những nuôi sống sắc thân chúng, lại còn dùng tiếng kinh, Phật hiệu giúp cho huệ mạng của chúng. Những [công trình] xây dựng đều hết sức châu đáo. Ước tính tốn hơn một vạn sáu ngàn đồng, nay đã lạc thành, tính khai giảng vào ngày Rằm tháng Tám Âm lịch này, quả là chuyện hiếm thấy trong đời Mạt Pháp.
Lại nhờ bạn ông ta là Trương Vân Lôi gởi thư cho Quang, xin viết lời tựa dẫn giải hòng khởi phát, mở rộng tín tâm. Nhân đó, tôi bèn đem nguyên do đức Như Lai nói ra hai thứ pháp môn thông thường và đặc biệt, cũng như tâm hạnh của Hồ cư sĩ và cách thức sắp đặt, trình bày đại khái, ngõ hầu người đọc đều bắt chước theo. Nếu người thấy nghe đều cùng phát tâm này thì phong tục thuần mỹ, dân giàu, vật mạnh, chuyển ngũ trược ác thế thành Liên Bang thanh tịnh. Đấy chính là điều Quang tôi thường thơm thảo cầu đảo vậy. Nguyện các thượng thiện nhân ai nấy rủ lòng thương xót thì may mắn lắm thay!
________________________________________________________
(1) Thừa tướng Tần Cối nhà Tống từng được ngài Tế Điên cảnh tỉnh nhưng vẫn gian ngoan không chừa, cấu kết với Tống Cao Tông hãm hại Nhạc Phi. Trong khi đại quân của Nhạc Phi đang đại thắng, đánh cho tướng Kim là Ngột Truật thất điên bát đảo, chiếm lại rất nhiều đất đai đã mất vào tay quân Kim, thừa thắng vượt Trường Giang (sông Dương Tử) vây hãm Biện Kinh. Vua Kim cho người mua chuộc Tần Cối, Cao Tông cũng sợ Nhạc Phi chiến thắng sẽ đem Huy Tông và Khâm Tông (đang bị giam lỏng ở Biện Kinh) về lại đất Tống nên cùng nhau một ngày hạ đến 12 tấm kim bài buộc Nhạc Phi phải bãi quân. Nhạc Phi bị tước hết binh quyền mà Tần Cối vẫn chưa hả dạ, lại còn vu cáo Nhạc Phi mưu phản và ra lệnh cho Đại Lý Tự (cơ quan tư pháp của triều Tống) xử tử Nhạc Phi. Nhạc Phi chết, quân Kim chiến thắng quân Tống dễ dàng. Như vậy có khác nào Tần Cối đã hai tay dâng giang sơn nhà Tống cho quân Kim nên người Trung Hoa hết sức căm ghét Tần Cối, tạc hình tượng Tần Cối bằng sắt quỳ trước cửa miếu thờ Nhạc Phi. Người đến lễ miếu Nhạc vương gia (Nhạc Phi) thường dùng chày sắt đập trên đầu Tần Cối. Tương truyền, loại bánh dầu cháo quẩy (du xao quỷ: quỷ chiên dầu) chính là mô phỏng hình ảnh vợ chồng Tần Cối đang bị quỷ sứ chiên trong chảo dầu nơi địa ngục.
(2) Tam Tai là còn gọi là Tam Tai Kiếp. Tam Tai xuất hiện trong kiếp Trụ và kiếp Hoại của thế giới. Có nhiều cách hiểu Tam Tai khác nhau đôi chút:
1. Theo Câu Xá Luận, quyển 12 thì Trụ Kiếp được chia thành 20 thời kỳ nhỏ. Khi tuổi thọ của hữu tình giảm từ tám vạn năm xuống mười năm, rồi lại tăng dần lên khoảng hai mươi lần. Cứ mỗi khi con người giảm tuổi thọ đến chừng còn 10 tuổi thì phát sinh một lần tai ách, tổng cộng có Đao Binh Tai (dùng vũ khí giết hại nhau), Tật Dịch Tai (dịch bệnh lưu hành), Cơ Cẩn Tai (đói kém mất mùa). Đây gọi là ba Tiểu Tai. Còn Đại Tam Tai phát sinh vào thời kỳ Hoại Kiếp. Các kinh như Đại Lâu Thán, Khởi Thế Kinh, Trường A Hàm (tiểu kinh Chuyển Luân Thánh Vương Tu Hành), Ưu Bà Tắc Giới kinh, Đại Tỳ Bà Sa Luận đều nói giống như vậy.
2. Theo sách Pháp Uyển Châu Lâm, quyển 1 thì Tiểu Tam Tai là:
a. Cơ Cẩn Tai, con người thọ tám vạn bốn ngàn năm. Cứ mỗi một trăm năm con người giảm một tuổi, giảm đến mười tuổi thì hạn hán lớn không mưa, cây cỏ không mọc được, vô lượng người trong thế gian bị chết đói.
b. Tật dịch tai: Đến lúc con người tuổi thọ giảm còn 20 tuổi thì bệnh dịch phát sanh, con người chết vì tật dịch vô số.
c. Đao binh tai: Khi tuổi thọ con người còn 10 tuổi, ai nấy đều đánh lẫn nhau, tay cầm nhánh cỏ cũng hóa thành vũ khí tàn sát lẫn nhau.
Ảnh Tây Phương Tam Thánh
Đoạn: Thế nhưng Bổn Địa của đại sư thật sự chẳng thể suy lường, lâm chung chỉ nói mình chứng Ngũ Phẩm [là vì] Ngài lo sâu xa cho đời Mạt chẳng dốc sức đoạn Hoặc chứng Chân, chỉ lấy minh tâm kiến tánh làm chuyện rốt ráo. Minh tâm kiến tánh chính là đại triệt đại ngộ.
Chuyện liễu sanh tử chẳng thể chỉ "ngộ" mà được, dẫu cho đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh đi nữa, cũng phải "chứng" [đoạn] mới được. Căn tánh chúng sanh thời Mạt này thôi... chịu thua, ngàn vạn người không biết có một! Ấy là chúng ta đang nói các Pháp tu Tự Lực, hoặc thậm chí là tu Pháp môn Tịnh Độ nhưng vẫn cậy vào Tự Lực [chẳng tin Tha Lực].
Đoạn: Chỉ có mình pháp môn Tịnh Độ, hễ có đủ lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, dùng tâm chí thành trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương, bất luận Hoặc nghiệp dầy - mỏng, công phu cạn - sâu, đều trong lúc lâm chung nhờ vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh.
Riêng một Pháp Tín - Nguyện - Hạnh đầy đủ, chân thực, thiết tha, liền cảm Phật từ lực, đới nghiệp vãng sanh Tây Phương, liễu sanh thoát tử ngay một đời này. Chữ "đới nghiệp" ở đây ý chỉ chúng ta hãy còn Phiền, Hoặc [nghiệp], nhưng nhờ nương tựa vào Phật từ lực [Nguyện lực của Phật] nên mới được vãng sanh. Thế nên những ai [hành giả Tịnh Độ] muốn vãng sanh trong một đời này mà bỏ qua 'công đoạn' này, tức tin tưởng, nương cậy vào Phật lực, mà chỉ tu hành theo kiểu tự lực [tức chỉ cậy vào sức mình hay những thế lực bất kỳ nào khác] thì ... xác định nhé. Nếu vậy thì các bậc ngu phu ngu phụ, không biết chữ, hay các cụ già... được thiện tri thức [nào đó] khuyên niệm Phật sẽ được lợi ích, được Phật rước, thế là cứ 'lão thật niệm Phật' mãi đến cuối đời thì sao? Có được Phật rước chăng? Vẫn được Phật rước như thường, thậm chí còn viên mãn hơn nữa, vì đã dốc lòng chuyên niệm, chuyên nhất một câu Phật hiệu. Ấy là vì trong "chuyên nhất niệm" đó nó có hàm chứa tín tâm [chân thật, sâu xa] trong ấy, và khi đó không thể không kèm theo nguyện tâm thiết tha, rồi chân thật hành trì [trong câu Phật hiệu có đầy đủ các công đức ấy]. Bởi thế Đại sư Thiện Đạo mới nói "Dùng hạnh lập tín" là vậy.
Đoạn cuối: Niệm Phật Đường thật rộng lớn, trong ấy thờ tượng đứng của Tây Phương Tam Thánh ngõ hầu hành nhân thường ngắm nhìn, lâm chung liền được tiếp dẫn.
Chúng ta tu hành thì tùy duyên mà hành trì thôi, "Y pháp bất y nhân", mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, chẳng nên chấp chặt, rập khuôn. Tuy nhiên có những thứ chúng ta phải cần tham khảo, học hỏi [nếu cần thiết]. Rõ ràng chúng ta thấy, các hình ảnh [thấy, biết được] về Phật cùng Thánh chúng đến tiếp dẫn chúng sanh là các Ngài ngồi hay đứng? Thế nên, hình [tượng] Phật Bồ tát thờ phụng, lễ bái hàng ngày tại phòng thờ, phòng công phu hàng ngày cũng phải nên tương ứng, phù hợp thì mới nên.
Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên
Lời tựa cho Hồng Kiều Tịnh Độ Đường ở Lạc Thanh
Đại Sư Ấn Quang