[Muốn] hết thảy trong một đời này đều có thể thoát ly sanh tử, cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh
Phật giáo chính là cái gốc lớn lao của hết thảy các pháp, hết thảy các giáo. Vì sao nói thế? Hết thảy các pháp do tâm kiến lập, hết thảy phàm - thánh do tâm xuất sanh. Hết thảy các giáo trong thế gian tuy đều nói đến tâm, nhưng những gì được [các giáo ấy] nói chỉ là luận về tác dụng của tâm, chứ cội nguồn cùng tột của bản thể “bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến, tâm này làm Phật, tâm này là Phật, tâm làm tam thừa, tâm là tam thừa, tâm làm lục đạo, tâm là lục đạo” thì các giáo đều chưa phát huy được! Chỉ có mình đức Thích Ca Thế Tôn ta triệt ngộ tự tâm, biết tâm của hết thảy chúng sanh và tâm của Như Lai không hai không khác, nhưng do mê nên chưa ngộ, oan uổng làm chúng sanh, cho nên nói: “Hết thảy chúng sanh đều đầy đủ trí huệ của Như Lai nhưng do vọng tưởng, chấp trước nên chẳng chứng đắc. Nếu lìa vọng tưởng, chấp trước thì Nhất Thiết Trí, Vô Ngại Trí đều được hiện tiền”. Lại nói: “Hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, ta là Phật đã thành, các ông là Phật chưa thành”. Đấy đều là những điều đức Phật nói ra khi mới vừa thành Phật trong các hội Hoa Nghiêm, Phạm Võng. Do vì đại căn chúng sanh mau chóng ngộ tự tâm, nhập Phật tri kiến, còn hàng tiểu căn chưa thể nhập được ngay nên Phật thuận theo cơ nghi để thành thục họ. Lại muốn cho hết thảy dù thánh hay phàm cùng trong một đời này thoát lìa sanh tử nên đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật vãng sanh Tây Phương, khiến cho hết thảy những ai không có sức đoạn Hoặc, chẳng thể vượt thoát ra ngoài luân hồi đều cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh, cao dự chín phẩm trong hội tốt lành, thân cận ánh sáng yên vui của Phật Di Đà, để rồi rốt ráo chứng triệt để tự tâm mới thôi! Lòng chân từ đại bi vỗ về, nuôi dạy kẻ căn cơ nhỏ nhoi của đức Như Lai có thể nói là tột bậc không còn gì hơn được nữa!
[Phật giáo dạy người] đốn luân, tận phận, nhàn tà, tồn thành, tín nguyện trì danh, cầu sanh Tịnh Độ
Phật pháp tuy gọi là pháp xuất thế gian, nhưng thật ra đạo luân thường hiếu đễ thế gian và pháp “cách vật trí tri, chánh tâm thành ý, tu - tề - trị - bình” đều được Phật pháp phát huy đến cùng tận, chẳng bỏ sót mảy may điều thiện nào. Vì thế, xưa nay những vị lập đại công, dựng đại nghiệp, hạo khí ngời trời đất, tinh thành lòa nhật nguyệt, lời lẽ, hành vi trở thành pháp tắc cho cõi đời phần nhiều là do học Phật đắc lực mà ra; những người thông minh duệ trí vượt trỗi muôn người không ai chẳng cung kính sùng phụng Phật pháp, hộ trì, lưu thông, để về mặt ngầm là giúp cho thế đạo, về mặt lộ là giữ yên dân tình, hòng đạt được hiệu quả thật sự là làm cho dân chúng ngày càng hướng thiện mà chẳng biết. Những nhà Nho câu nệ, hẹp hòi, không có được con mắt trí như vậy thường chỉ trích bừa bãi, bảo Phật pháp khinh miệt luân lý, vô ích cho quốc gia. Bọn họ chấp nhặt chuyện bỏ tục xuất gia, chẳng biết Phật giáo dạy người tận lực giữ vẹn luân thường, tận hết bổn phận, trọng lòng kính, giữ lòng thành, khắc kỷ, giữ lễ, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành, kiêng giết, che chở sanh vật, tín nguyện niệm Phật ngõ hầu lúc sống dự vào dòng thánh, khi chết về cõi Cực Lạc. Khắp trọn thế gian hết thảy kẻ phú quý, bần tiện, trí, ngu, hiền, tệ, già, trẻ, trai, gái, không ai chẳng thể nương theo pháp này tu tập, há phải đâu chỉ có mình người xuất gia [mới làm được] ư?
Dùng công đức tu trì của chính mình để hồi hướng cho cha mẹ [dù còn hay đã mất]
Nếu như hết thảy mọi người thật sự nương theo pháp này tu tập thì gần là hưởng niềm vui thoát khỏi tam giới, xa là chứng quả phước huệ nhị nghiêm. Phải biết do Như Lai nêu tỏ lý “tâm sẵn có Phật tánh” và sự “nhân quả ba đời” nên đã khiến cho không biết bao nhiêu kẻ ngu phu ngu phụ trở thành thánh hiền, khiến cho không biết bao nhiêu kẻ đại ác ngoan bướng, hung hãn dứt bỏ lòng ác ngầm. Do vậy, thực hành Phật pháp thì thiên địa quỷ thần thảy đều hiện điềm lành, huống chi là con người? Ngay như một pháp xuất gia cũng chẳng phải là khinh miệt luân thường; bởi lẽ những người ấy được cha mẹ cho xuất gia, tu tinh ròng phạm hạnh, dùng công đức tu trì của chính mình để hồi hướng cho cha mẹ, mong sao thần thức cha mẹ thoát khỏi tam giới ngự lên chín phẩm, ngộ Vô Sanh, chứng bản tánh. So với những kẻ hiếu dưỡng, nhưng để cha mẹ luân hồi trong tam đồ lục đạo bao kiếp dài lâu không nơi nương tựa, chẳng tốt hơn lắm hay sao?
Dùng tâm từ bi hành hạnh phóng sanh [vì họ niệm Phật, mong cho họ mau thoát khỏi ác đạo, mau sanh về Tây Phương mới thôi!]
Huống chi Phật dạy đệ tử coi hết thảy chúng sanh đều là cha mẹ thân quyến trong quá khứ, dùng tâm từ bi hành hạnh phóng sanh. Chẳng những đối với cha mẹ trong đời này không nỡ lòng coi thường gạt qua một bên, mà còn đối với hết thảy những sanh vật sống trên đất, dưới nước, bay trên không cũng chẳng nỡ coi thường bỏ qua. Dù cho sức chẳng thể lo hết, vẫn dùng bi tâm thiện niệm vì họ niệm Phật, mong cho họ mau thoát khỏi ác đạo, mau sanh về Tây Phương mới thôi! Do vậy nói rằng: “Nếu con người hành theo Phật pháp sẽ thắng tàn bạo, bỏ giết chóc, thế đạo thái bình vậy!” Hơn mấy mươi năm gần đây, sát kiếp trọn khắp trong ngoài nước, do khí ác ấy chiêu cảm thiên tai, lụt lội, hạn hán, bão tố, động đất liên tiếp giáng xuống, vận đời nguy ngập, dân không lẽ sống. Những vị lo cho đời nghĩ cách cứu vãn, bèn lấy việc đề xướng Phật học làm nhiệm vụ cấp bách. Nếu con người biết được nhân quả ba đời, sự thật luân hồi lục đạo và diệu đạo “nhất niệm tâm tánh của chúng ta chẳng khác với chư Phật” thì có ai chịu dùng cái vốn “tâm này làm Phật, tâm này là Phật” để tạo nghiệp sanh tử, vĩnh viễn đọa trong ác đạo hay chăng?
Thương cho đời nhiều kẻ không biết
Đại sư Đằng Chiếu ở Đài Loan thương cho đời nhiều kẻ không biết, thề muốn lợi khắp đồng nhân nên tính lập hội Phật giáo để đề xướng, giảng thuyết khiến cho đại chúng đều biết. Thoạt đầu, hội ấy định kỳ tu trì để làm gương mẫu ngõ hầu phong thái ấy được lưu hành khắp cõi, khiến cho nhà nhà Quán Thế Âm, chốn chốn Di Đà Phật. Lại còn lưu thông những kinh điển được in khắc từ các nơi, khiến cho những ai có tín tâm hiểu được văn nghĩa đều được đọc tụng, thọ trì, hòng tận lực thực hành luân thường, trọn hết bổn phận, trọng lòng kính, giữ lòng thành, khắc kỷ, giữ lễ, không làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, kiêng giết, che chở loài vật, tín nguyện niệm Phật để mong sao sống dự vào bậc thánh hiền, mất về cõi Cực Lạc. Lợi ích ấy chẳng thể diễn tả được. Sư biết Quang là người có cùng chí hướng, bèn gởi thư nhờ viết lời tựa, nên tôi bèn diễn giải đại lược “Phật giáo lợi khắp hết thảy hữu tình” vậy!
Ảnh: Chùa "nghiêng" Taihe - một kiến trúc nổi tiếng Đài Loan.
Đoạn đầu: Lại muốn cho hết thảy dù thánh hay phàm cùng trong một đời này thoát lìa sanh tử nên đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật vãng sanh Tây Phương, khiến cho hết thảy những ai không có sức đoạn Hoặc, chẳng thể vượt thoát ra ngoài luân hồi đều cậy vào Phật từ lực đới nghiệp vãng sanh, cao dự chín phẩm trong hội tốt lành.
Sở dĩ mỗi chúng ta nói riêng và chúng sanh nói chung đều 'có thể' thành Phật là do mỗi mỗi chúng sanh đều có tự tánh làm Phật, hệt như nhau [và như Phật] chẳng khác. Nên việc thành Phật chẳng qua chỉ là 'cố gắng' trở về với tự tánh làm Phật vốn có của mình mà thôi. Điều này thì chỉ có Đức Phật khi thành đạo Ngài dùng Phật nhãn soi chiếu thấy được và nói ra trong các Kinh. Trên lý thuyết là vậy, còn ngoài thực tế thì... gần như 'vô phương', không thể làm nổi điều này, chỉ một bộ phận rất rất nhỏ mới có khả năng tự làm được việc này, nhưng phải trải qua quãng thời gian gần như 'vô tận' vậy [mấy đại A Tăng Kỳ kiếp]. Vậy thì vì sao Phật nói "chúng sanh là Phật sẽ thành, các ông sẽ thành Phật"? Thật sự mà nói, đó chính là nhờ A Di Đà Phật. Không có A Di Đà Phật [không có Pháp môn này], như Chư Tổ Sư nói, mười phương chúng sanh trên chẳng thể thành tựu Phật đạo, mười phương Chư Phật dưới chẳng thể độ khắp quần manh. Thật sự là như vậy! Chúng sanh hầu như mãi mãi vẫn chỉ là 'sẽ' thành Phật, còn Chư Phật thì không thể độ tận tất cả được, mãi mãi không bao giờ! Còn khi có A Di Đà Phật [tức Bổn Nguyện của Ngài] mọi chuyện trở nên khác hẳn. Tất cả đều có thể [vãng sanh] thành Phật, còn Chư Phật thì có thể dùng Pháp này để độ tận tất cả chúng sanh, cho đến viên thành Phật quả. Việc này bây giờ là đã 'có thể', chỉ còn là vấn đề thời gian, theo thứ lớp, tùy thiện căn phước đức nhân duyên của mỗi chúng sanh mà thôi. Tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật, không còn vị nào là 'không thể' hay 'không bao giờ' nữa. Chúng ta phân tích một chút như thế để thấy rằng ân đức của A Di Đà Phật đối với thập phương chúng sanh là như thế nào!
Trở lại với vấn đề của chúng ta, Chư Phật còn muốn "hết thảy dù thánh hay phàm cùng trong một đời này thoát lìa sanh tử", chứ chẳng cần đời nào khác nữa, bởi thọ sanh lần nữa thì rất nguy hiểm [bị si phước mê lầm, nghiệp lực dẫn dắt, sanh tử 'y như cũ']. Như vậy liệu ắt có được hết chăng? Đức Phật thì Ngài muốn như vậy, còn thành tựu hay không thì do tùy mỗi người tu tập thôi, có ai tu 'dùm' ai được đâu. Nhưng một khi đã là 'Thánh ý' thì chắc chắn là có cơ sở vậy!
Đoạn tiếp theo: Chẳng biết Phật giáo dạy người tận lực giữ vẹn luân thường, tận hết bổn phận, trọng lòng kính, giữ lòng thành...
Liệu có ai đó hỏi rằng: Chi mà lắm 'thứ' thế, chỉ cần Tín nguyện, niệm Phật, thì ắt sẽ thành tựu thôi. Dạ vâng, đúng vậy! Tông chỉ tông yếu của Tịnh Độ cũng chỉ có vậy. Nhưng vấn đề là ở chỗ, để thực hiện được ba món 'tư lương' đó cho đúng nghĩa không phải tự nhiên mà có được. Cái này cũng giống như nấu ăn vậy, để chế biến ra được món ăn thì cần những thứ nguyên liệu, gia vị... thì mới tạo ra được sản phẩm. Ví dụ, để gầy dựng Tín tâm, ngoài việc phải có thiện căn mới tin nổi, còn phải giữ gìn duy trì nó nữa, mà điều này phụ thuộc chính yếu vào tính cách, tâm tánh của chúng ta, tạm gọi là "lòng nhân" như thế nào, mà cái này được hun đúc, phát triển được từ những luân - thường [hiếu để trung tín lễ nghĩa liêm sỉ...], tức những tánh đức của chúng ta. Thiếu những cái này, một chữ 'tín' trong thế gian còn không kham nổi huống hồ chi chữ 'tín' trong pháp xuất thế gian. Chưa kể, niềm tin trong Pháp xuất thế này đòi hỏi cao lắm, tận cùng nguồn tâm lận [chí tâm]. Vì sao cần phải như vậy? Là để 'gạn lọc' cho qua hết những cái tâm gọi là giả, hư, không thật... để đi vào đến tận cùng của nguồn tâm, gọi là 'chân tâm', niềm tin phải 'chạm' tới cảnh giới này mới được, chứ dạng 'dạo chơi bên ngoài' thì không ăn thua đâu.
Một khi chưa chạm đến cái tâm này, thì kiểu gì cũng còn chút gì đó nghi hoặc, chưa thể "bất sanh nghi hoặc" được và cũng khó thể duy trì lâu bền được, dễ bị gió chiều nào lại ngã theo chiều ấy, không thể kiên định tín tâm được. Thật sự, đây cũng là một dạng của cảnh giới "nhất tâm" mà các Kinh luận, trước tác Chư Phật, Chư Tổ Sư hay nhắc đến. ["Nhất tâm là tín tâm kiên định, chẳng bị các tâm khác não loạn", "Như vậy nhất tâm cầu Tịnh Độ, giả sử lửa cháy khắp ba ngàn, nhờ oan đức Phật tất siêu việt, quyết định vãng sanh cõi Cực Lạc", "Nhất tâm tin tưởng, vui thích cầu nguyện vãng sanh, trên là niệm trọn đời, dưới thâu vào mười niệm, nương nhờ nguyện lực của Đức Phật, không ai là không được vãng sanh", "Nếu quả thật tin cho tới nơi, giữ cho chắc, nhất định trong đời này sẽ liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh", "Một pháp Tín phải gấp gáp suy cầu, ngõ hầu tạo lòng tin sâu xa đến cùng cực vậy", "Vãng sanh mà nghĩ rằng nhất định thì nhất định, mà nghĩ rằng bất định là bất định!"...].
Vậy làm sao để đạt được điều này? Thật sự, với các bậc Bồ Tát thị hiện thì không nói làm gì, còn như phàm phu chúng ta thì không còn cách nào khác là phải học tập, gầy dựng dần dần lên vậy. Kiểu gầy dựng này cũng như gầy dựng công phu vậy [nhưng dễ hơn nhiều, ai cũng có thể], tức là cần có thời gian, rồi ra sức huân tập, hành trì, nghe đọc cho nhiều. Mưa dầm thấm đất, từ từ ắt sẽ đạt. Chẳng có gì tự nhiên mà có ngay cả. Chúng ta thử nhìn xem các Ngài là những bậc Long tượng, mà gầy dựng công phu phải như thế nào, thời gian mất bao lâu để thành tựu. Ở đây chúng ta chỉ là gầy dựng "nhất tâm tin tưởng" thôi [dễ hơn vạn lần], nhưng không thể nói là không bỏ nhiều công sức, thời gian.
Trở lại với vấn đề trên, chúng ta càng thấy rằng, như những kẻ hàng ngày tạo tác, sống giả tạo, hư dối... làm sao chạm đến cái 'chân tâm' này được. Hay những kẻ gọi là 'vô ơn', 'bạc bẽo' [thiếu "nghĩa"] thì làm sao giữ gìn [lòng tin] được bền lâu cùng sự kiên định cho được, rồi như kẻ thiếu lòng nhân từ [hay làm điều xấu, ác] thì liệu có thể nào "nguyện [vãng sanh] trọn thành Phật đạo, rộng độ khắp chúng sanh" được chăng?
Cho nên nói, Pháp môn vi diệu, nhưng cần phải nghiêm túc học tập, dụng công hành trì... bằng tất cả tâm huyết, khả năng của mình thì mới được.
Dĩ nhiên, cũng có nhiều vị, cả đời 'vì con, vì cháu', chẳng biết tu là gì, cuối đời buông xuống, một câu Phật hiệu mà niệm, thành tựu, được Phật rước. Ấy thật sự là những người có thiện căn, phước đức, nhân duyên quá sâu dày. Cả đời chẳng tu tập gì cuối đời lại được bắt gặp nhân duyên tốt lành, nắm bắt cơ hội, thành công. Có thể rằng họ đã nhiều đời nhiều kiếp huân tu nghiêm mật [và cả đời này tu tập ngay trong 'trường đời'] nên nay mới được như vậy. Chúng ta liệu có mong được như vậy chăng? Thì cứ kiểm đếm xem thì biết ngay thôi, trong số [vô vàn] những người suốt đời 'chẳng biết tu gì' đó, liệu có bao nhiêu người cuối đời hội tụ được nhân duyên tốt lành, rồi thành tựu đạo nghiệp giải thoát? Ấy là chưa kể vô thường tấn tốc, chẳng biết lúc nào. Cho nên, nói tóm lại, việc tu hành là không thể chờ đợi, không thể hẹn ước, và trên hết là không thể 'đặt cược' [may rủi, tung xúc xắc, hay đợi lúc cuối cậy vào hộ niệm...]. Tu hành là phải gầy dựng, nắm chắc [phước phần] thành tựu của mình ngay khi bình thời này [bất luận cảnh duyên sẽ ra sao].
Những đoạn tiếp theo có rất nhiều giáo lý thực tiễn, chúng ta học tập để được những lợi ích chẳng thể nghĩ bàn.
Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên
Lời tựa trình bày duyên khởi của hội Phật Giáo Đài Loan
Đại Sư Ấn Quang