Thành Tựu Cho Bậc Đại Căn Cơ Mau Chứng Pháp Thân, Nâng Đỡ Kẻ Căn Cơ Kém Cỏi Mau Thoát Sanh Tử

NPSTD7

 

Thành Tựu Cho Bậc Đại Căn Cơ Mau Chứng Pháp Thân, Nâng Đỡ Kẻ Căn Cơ Kém Cỏi Mau Thoát Sanh Tử

Đều cùng trong một đời này vãng sanh Tây Phương

Thế giới Sa Bà dùng âm thanh làm Phật sự. Biển khổ sanh tử, không niệm Phật chẳng thể thoát lìa! Bao nhiêu chúng sanh mê chân đuổi theo vọng, trái giác hiệp trần, nhiều kiếp lâu xa luân hồi sanh tử. Do vậy, động đến lòng Bi Đồng Thể của đức Thích Ca Thế Tôn ta, Ngài bèn đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương để thượng trung hạ căn dù thánh hay phàm đều cùng trong một đời này vãng sanh Tây Phương, thành tựu cho bậc đại căn cơ mau chứng Pháp Thân, nâng đỡ kẻ căn cơ kém cỏi mau thoát sanh tử. Những giáo pháp khác trong suốt một đời đức Phật đều chẳng sánh bằng được! Do vậy, những bậc cao nhân lỗi lạc ở Tây Thiên, Đông Độ không ai chẳng dùng pháp này để tự hành, dạy người, bởi pháp này chính là diệu môn để nhập đạo, là đường tắt để thành Phật vậy.

 

Sanh Tây Kim Giám

Cư sĩ Nhị Lâm (Bành Tế Thanh) thâu thập những nhân duyên lập pháp độ sanh của Phật, Bồ Tát và những sự tích niệm Phật vãng sanh của cổ đức, tăng, ni, vua, quan, nam nữ cho đến loài vật trong các đời, lại còn sao lục những câu nói hoằng dương Tịnh Độ thiết yếu soạn thành một cuốn sách, đặt tên là Tịnh Độ Thánh Hiền Lục. Cư sĩ Liên Quy lại soạn tiếp cuốn [Tịnh Độ Thánh Hiền] Tục Lục, đều nhằm làm kim chỉ nam cho những kẻ mê mất quê nhà, làm gương báu cho những ai chẳng nhận biết chính mình. Nhưng do số quyển quá nhiều chẳng thuận tiện cho hàng sơ cơ, nên cư sĩ [Phan] Đối Phù muốn làm cho kẻ sơ cơ dễ nẩy sanh lòng tin tưởng, do vậy bèn đối với hai bộ Chánh Lục, Tục Lục ấy, trích yếu những sự tích rõ ràng nhất gồm hơn hai trăm chuyện, lại viết thêm lời tán, đặt tên là Sanh Tây Kim Giám (gương vàng sanh Tây) ngõ hầu người đọc nhìn vào gương cổ nhân nẩy sanh lòng kính ngưỡng, ca ngợi. Ý ấy thật sâu xa.

 

Hiểu thấu suốt sự lợi - hại giữa Sa Bà và Cực Lạc
Xưa kia, Tử Phòng (Trương Lương) muốn phá quân Sở liền truyền quân mình cùng hát những bài ca nước Sở, quân Sở nghe hát đều muốn quay về. Huống chi đương lúc thiên tai nhân họa liên tiếp xảy ra, vận nước nguy ngập dân không lẽ sống này, lại thêm tà thuyết tung hoành, bè lũ ma lừng lẫy, tà chánh chẳng phân, không có gì thích đáng để theo, vừa được nghe quang cảnh thế giới Cực Lạc vượt ra ngoài kiếp, trang nghiêm sẵn có, há chẳng muốn quay về để vui với thiên chân của chính mình ư? Nếu người đọc hiểu thấu suốt sự lợi - hại giữa Sa Bà và Cực Lạc, lại còn [được nghe] ca ngợi nhiều lần thì tôi biết cái tâm cầu sanh Tây Phương của họ sẽ như sông ngòi lúc vỡ đê, thế khôn ngăn được vậy!

 

CVSVN115

Ảnh: Sách Truyện Vãng Sanh Ở Việt Nam

Đoạn đầu: Thế giới Sa Bà dùng âm thanh làm Phật sự. Biển khổ sanh tử, không niệm Phật chẳng thể thoát lìa! Bao nhiêu chúng sanh mê chân đuổi theo vọng, trái giác hiệp trần, nhiều kiếp lâu xa luân hồi sanh tử...

Nỗi khổ của chúng sanh trong sanh tử thành biển, tức là vô cùng tận các nỗi khổ không sao đếm kể xiết. Thật sự, nước mắt chúng sanh đã thành biển vậy, không thể đong đếm được. Nếu chúng sanh chẳng bắt gặp được Chánh pháp, thì cứ suốt ngày "mê chân đuổi vọng, trái giác hiệp trần, nhiều kiếp lâu xa luân hồi sanh tử" mãi không cách gì thoát ra được!

Câu tiếp: Do vậy, động đến lòng Bi Đồng Thể của đức Thích Ca Thế Tôn ta, Ngài bèn đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương để thượng trung hạ căn dù thánh hay phàm đều cùng trong một đời này vãng sanh Tây Phương, thành tựu cho bậc đại căn cơ mau chứng Pháp Thân, nâng đỡ kẻ căn cơ kém cỏi mau thoát sanh tử.

Thật ra thì Pháp môn Tịnh Độ là do Phật A Di Đà sáng lập ra để cứu độ chúng sanh trong khắp Thập phương pháp giới, chẳng bỏ sót chúng sanh nào cả. Còn Chư Phật khắp Thập phương [trong đó có Phật Thích Ca Mâu Ni] chỉ là tán thán, xiển dương, truyền trao lại Pháp môn này cho chúng sanh trong Quốc độ của mình đang độ mà thôi. Nhưng đấy cũng là đã vận lòng Đại Bi Đồng Thể [Phật, chúng sanh tất cả cùng một thể] mà diễn nói ra Pháp môn này vậy. Tâm Đại Từ Đại Bi của tất cả Chư Phật thật cùng cực, không thể diễn nói hết được! Cũng nhờ nhân duyên đó [vô duyên Từ] mà chúng ta ngày nay mới bắt gặp được Chánh pháp này mà nương nhờ vậy.

Câu "Ngài bèn đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương để thượng trung hạ căn dù thánh hay phàm đều cùng trong một đời này vãng sanh Tây Phương...". Thật ra Pháp môn này nếu gọi đầy đủ phải là như thế "Pháp môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương", chứ không phải chỉ là "Pháp môn niệm Phật" không thôi, gọi như vậy chỉ là gọi tắt. Bởi Niệm Phật thì cũng có lắm loại niệm Phật: Niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương, niệm Phật chẳng cầu vãng sanh [chỉ cầu phước báo thế gian], niệm Phật có Tín Nguyện, niệm Phật chẳng có Tín Nguyện... Dẫu cho là hành giả niệm Phật cầu sanh Tây Phương đi nữa, nhưng nhiều khi cũng chẳng hiểu rõ phân biệt được vấn đề này. Cứ nghĩ Tịnh Độ môn đơn giản chỉ là Pháp môn niệm Phật thôi, nên chỉ chú trọng dụng công hành trì, mà quên mất 'dụng tâm' gầy dựng Tín Nguyện. 

Thật ra thì thời xưa, căn cơ còn nhiều tốt lành lanh lợi, nghiệp duyên chúng sanh chưa đến nỗi bức bách, tà ma ngoại đạo chưa đến mức hẫy hừng, hoàn cảnh nhân duyên chưa đến mức xen tạp lộn xộn, thì tu tập như thế sẽ dễ dàng thành tựu. Rất nhiều gương vãng sanh thời xưa đều tu tập như thế và vãng sanh viên mãn, để lại biểu pháp thật thù thắng. Còn thời nay, đặc biệt là vài mươi năm trở lại đây, do thông tin truyền thông bùng nổ, làm cho tà - chánh bất phân, ma sự trùm khắp, cộng với lòng người xuống thấp trầm trọng, kiếp nạn dẫy đầy... với môi trường tu tập như thế, nếu hành giả không có một chánh kiến rõ ràng, đầy đủ, mà chỉ phó mặc cho 'tự nhiên' [nhân duyên] thì thật là nguy hiểm lắm lắm! Giống như đi trên đường đầy hiểm trở gập ghềnh, hầm hố cạm bẫy, mà lại đi trong đêm tối thiếu ánh sáng chiếu soi vậy. Thật sự là như thế!

Câu tiếp theo: "...thành tựu cho bậc đại căn cơ mau chứng Pháp Thân, nâng đỡ kẻ căn cơ kém cỏi mau thoát sanh tử". Thật vậy như đã nói nhiều lần rồi, Pháp môn này chẳng 'kén chọn' căn cơ, dù là từ Thượng thánh, Trung tánh, đến Hạ phàm, đều có phần để thành tựu cả. Vì sao các Ngài luôn khẳng định như vậy? Bởi đơn giản là Pháp môn này có dựa vào Tự lực của mỗi hành giả đương nhân không thôi đâu, mà chủ yếu là phải 'nương cậy' vào Tha Lực của Phật để được thành tựu. Cho nên bất luận hạng căn cơ nào [công phu ra sao, công đức thế nào (thể hiện của yếu tố Tự lực mỗi cá nhân)], chỉ cần 'nương cậy' được Phật lực là được về. Chỗ Tự lực của mỗi cá nhân cần phát huy ở đây đó chính là "Tín Nguyện, Niệm Phật", trong đó Tâm Lực [tức Tín Nguyện tâm] được yêu cầu phải ở mức 'tới hạn' mới được! Một yêu cầu ở mức cao nhất của Tâm lực [tới hạn], không thể thấp hơn được, nếu muốn thành tựu trong đời này. Trong Kinh giáo thì văn tự đó là "chí tâm" hoặc là "nhất tâm", phải có ít nhất một trong hai cái đó. Thật sự thì điều này nếu bàn rộng chi tiết ra thì không biết bao nhiêu cho đủ, mà cũng không thật sự cần thiết, chúng ta chỉ cần biết đến vậy là đủ tu học rồi.

Cho nên, tu học Pháp môn này, chẳng thể 'giỡn chơi' hay 'đi dạo' được đâu! Chúng ta phải cần thật nghiêm túc trong tu học. Lúc nào vui thì cũng vui một chút, lúc nào phải 'trang nghiêm, thanh tịnh' thì phải ra như thế. Như vậy mới giữ được đạo tâm đạo lực, mới gầy dựng Tâm lực cho đến 'tới hạn' được! Do đó Chư Tổ mới đúc kết rằng Pháp môn này chỉ là "chí thành, khẩn thiết" mà thôi. Chúng ta đọc xem các gương vãng sanh trong ngoài nước trước đây, hay các ca vãng sanh thời gian gần đây xem họ liệu có thiếu các yếu tố đã bàn bên trên không vậy?!

Các đoạn khác chúng ta cùng đọc và học tập.

 

Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên

Lời tựa sách Sanh Tây Kim Giám
Đại Sư Ấn Quang

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.