Thật Là Đại Từ Bi Đến Cùng Cực Không Chi Hơn Được Nữa!

NPSTD7

 

Thật Là Đại Từ Bi Đến Cùng Cực Không Chi Hơn Được Nữa!

Vẫn cứ đắm chìm trong biển khổ sanh tử y như cũ không thể thoát được, do...

Một niệm tâm tánh của chúng ta quả thật chẳng hai, chẳng khác với Phật Thích Ca, Phật Di Đà; nhưng Phật Thích Ca, Phật Di Đà đã thành Phật đạo từ trần điểm kiếp trước, lại còn bao lần thị hiện giáng sanh, bao lần thị hiện nhập diệt để thực hiện sự giáo hóa. Phật muốn làm cho chúng ta noi theo dấu thơm, nhưng chúng ta không có sức đoạn trừ phiền não Hoặc nghiệp, mãi cho đến ngày nay vẫn trong sanh tử luân hồi thoạt chìm thoạt nổi, chẳng biết làm thế nào để ngưng dứt. Dẫu bao kiếp trước từng nghe Phật pháp, y giáo tu hành, nhưng do tự lực hèn yếu chẳng thể đoạn Hoặc, nên vẫn cứ đắm chìm trong biển khổ sanh tử y như cũ không thể thoát được! Im lặng suy nghĩ, há chẳng hổ thẹn ư?

 

Dạy nương vào Phật từ lực vượt ngang ra khỏi tam giới

Phật Thích Ca, Phật Di Đà xét thấu lẽ ấy, đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật, dạy nương vào Phật từ lực vượt ngang ra khỏi tam giới khiến cho thượng trung hạ căn cùng được vãng sanh Tây Phương, có thể nói thật là đại từ bi đến cùng cực không chi hơn được nữa! Nhân duyên khởi lên giáo pháp, pháp tắc tu trì được thấy trọn vẹn trong Tịnh Độ Tam Kinh, nhưng kinh A Di Đà ngôn từ giản dị, nghĩa lý trọn vẹn, dễ dàng thọ trì. Do vậy, cổ nhân xếp vào kinh nhật tụng, muốn cho nhà nhà được khuyến hóa, thấu hiểu, đều được tắm gội pháp trạch! Bởi thế, các thiện tri thức thảy đều chú thích, khác nào mặt trời, mặt trăng giữa trời nên không nghĩa nào chẳng hiển hiện, không căn cơ nào chẳng được thâu nhiếp. Nhưng hàng sơ cơ đối với văn sâu nghĩa thẳm khó thể lãnh hội, cho nên cư sĩ Vương Hiển Giang đặc biệt tạo phương tiện, đem những điều sách Yếu Giải đã chú sớ diễn giải lại bằng ngôn ngữ thông thường, dễ hiểu, đặt tên là Trực Giải, kèm thêm những nghi vấn về Tịnh Độ. Cái tâm tự lập, lập người, tự lợi, lợi tha ấy có thể nói thật là thiết tha. Hiển Ấm pháp sư viết lời tựa, muốn cho hết thảy đồng nhân ai nấy đều sanh lòng tin chân thật, chất phác niệm Phật, bèn sai Quang viết thêm lời tựa khác, nên tôi bèn trình bày chuyện này cùng người đọc.

 

THDS115

Ảnh: Đại Sư Ngẫu Ích (1599-1655), Tổ thứ 9 của Tịnh Độ Tông.

Đoạn: Phật Thích Ca, Phật Di Đà xét thấu lẽ ấy, đặc biệt mở ra pháp môn tín nguyện niệm Phật, dạy nương vào Phật từ lực vượt ngang ra khỏi tam giới khiến cho thượng trung hạ căn cùng được vãng sanh Tây Phương, có thể nói thật là đại từ bi đến cùng cực không chi hơn được nữa!

Câu này chúng ta đã được nghe nhiều lần rồi, nên chắc thấy cũng bình thường, hay những hành nhân Tịnh Độ mà tâm cầu sanh chưa mạnh thì đọc qua chắc cũng chẳng có cảm giác gì. Nếu có ai hiểu sâu về Pháp môn Tịnh Độ một chút, thấm thía cõi đời này, hiểu về lục đạo luân hồi một chút... sẽ thấy được giá trị của câu nói này như thế nào. Tâm đại từ đại bi của hai Đấng Từ Tôn thật đúng là cùng cực không gì sánh bằng được! Một đằng là sáng lập ra Pháp môn, một bên là xiển nói, chỉ dạy cho chúng sanh trong cõi Ta Bà này, trong đó có chúng ta đây. Nếu không, thật sự chúng ta chẳng biết đi đâu về đâu nữa!

Chúng ta cùng bàn luận một chút về một vấn đề trong tu học. Trong trước tác A Di Đà Kinh Yếu Giải của Đại sư Ngẫu Ích, vị Tổ Sư thứ 9 của Tịnh Độ Tông, có một công đoạn quan trọng sau: 

"A Di Đà Phật là một danh hiệu lớn lao, gồm có vạn công đức, niệm danh hiệu ấy để vời công đức đến với mình thì công đức nào cũng phải đến hết. Cho nên lấy ngay cái việc trì niệm danh hiệu Phật làm một việc tu hành thật chính đáng, bất tất phải xen lẫn vào những pháp tu Quán Tưởng và pháp tu Thiền Tham Cứu. Phép tu Trì Niệm Danh Hiệu Phật là một phép tu rất giản dị, rất thẳng mau lắm rồi."

Nghĩa lý văn tự công đoạn này thật rõ ràng, chắc ai ai cũng cảm nhận được. Danh hiệu Vạn Đức Hồng Danh A Di Đà Phật mà đem đi tán thán thì thôi... cả kiếp cũng không hết! Thật vậy, việc này thì chúng ta nghe nhiều đọc nhiều, đã quá quen thuộc rồi, chẳng cần luận bàn thêm nữa. Ở đây chỉ xét đến một khía cạnh khác của vấn đề, có tầm quan trọng cũng không kém. 

Câu "A Di Đà Phật là một danh hiệu lớn lao, gồm có vạn công đức, niệm danh hiệu ấy để vời công đức đến với mình thì công đức nào cũng phải đến hết". Chúng ta hành giả Tịnh Độ phải thật ghi nhớ câu này, bởi nó rất quan trọng, ở nhiều phương diện. Chúng ta niệm Phật cầu công đức được vãng sanh Tịnh Độ thì ắt công đức ấy 'sẽ đến', đầy đủ viên mãn, chẳng thiếu sót gì cho việc sanh về Tịnh Độ [bất luận công phu sâu cạn]. Đây chính là mặt thuận, mặt tích cực của vấn đề. Mặt khác, như các Ngài nói, do năng lực bất khả tư nghì của danh hiệu này, nên 'niệm gì ra nấy' [hay nói nôm na là 'cầu gì được nấy'], đây mới chính là vấn đề cần bàn, là 'con dao hai lưỡi' cho chính hành giả chúng ta vậy. Vì sao vậy? Chúng ta niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ, được sanh Tịnh Độ; cầu phước thế gian được 'sanh ra' phước thế gian. Nhiều ít bao nhiêu vậy? Tùy tâm, có thể nói 'muốn bao nhiêu được bằng ấy', thậm chí còn hơn nữa, không tưởng được luôn. Thật vậy sao? Thật sự là như thế, nên các Ngài mới liễu giải ra như vậy "vời công đức đến với mình thì công đức nào cũng phải đến hết", thành tâm mà cầu thì chẳng thứ gì chẳng đến. Đây mới thực sự là vấn đề, mà rất nhiều ngươì chúng ta mắc phải. Chúng ta tu học cầu vãng sanh, liễu thoát sanh tử khổ đau, rồi sau một thời gian tu học liệu có 'kiêm' thêm cầu cái gì khác không vậy? Mặc dù ngoài miệng chắc là không bao giờ nói ra nhưng trong thâm tâm thì ai mà biết được, đúng không [chắc chỉ có Phật Bồ tát thấy được]? Rồi thời gian trôi qua, chắc cũng đạt được ít nhiều gì đó [phước thế gian] chúng ta lại tưởng đâu mình tu giỏi, tu đạt, được cái này cái kia... Mà rằng, chúng ta đâu hay đường đạo chúng ta [cũng chính vì thế] đang ngày càng thu hẹp, chúng ta đang "đem giá trị liên thành đổi lấy viên kẹo bọc đường" thôi. Thật sự quá nguy hiểm [cho mình lẫn người]!. Chúng ta đừng bao giờ tự hào nói rằng 'Nhờ niệm Phật chúng ta được cái này cái kia', hay 'Tất cả đều là nhờ niệm Phật'... Đây chắc chắn là mặc dù chúng ta đang tu Tịnh Độ cầu vãng sanh nhưng đang 'kiêm' thêm những thứ khác [của phước thế gian] mà chúng ta chẳng hay. Việc này chắc chúng ta nghĩ cũng đâu có gì quá lắm, để tạo phương tiện tu tập hay độ sanh thôi mà... Dạ, việc độ sanh cần đúng Chánh Pháp. Dẫu độ được một người vãng sanh cũng hơn hẳn việc 'độ' cả vạn người chỉ để gieo duyên [vì hành không đúng Chánh pháp thì làm sao thành tựu giải thoát cho được]. "Giả sử cúng dường hằng sa Thánh, không bằng kiên dõng cầu Chánh Giác", lời Phật trong Kinh chúng ta đừng bao giờ quên. Cho nên, các bậc Chư Tổ Sư từng đời đều khuyên nhắc chúng ta rằng: "Người niệm Phật chẳng cầu phước báu thế gian, chỉ cầu lâm chung vãng sanh Tịnh Độ" mà thôi. Cầu phước thế gian rồi 'vời' ra được phước thế gian, thế thì...mệt mỏi đấy [chứ chẳng phải sướng ích gì đâu nhé]. Dẫu vui sướng trong chốc lát [đời này] rồi thì lục đạo luân hồi y như cũ, trong khi người ta chân thật chỉ cầu sanh Tịnh Độ, chẳng mong cầu gì khác, cuối đời được Phật rước, vĩnh viễn giải thoát luân hồi. Vậy so ra cái nào hơn đây?!

Chúng ta đừng xem những lời bàn này là tầm thường, chẳng đáng bận tâm. Thật sự ngày nay trên chốn đạo đường, mấy ai 'dám' nói lên những điều này? Thật sự đấy, phải là người 'chẳng biết sợ' mới dám nói! Chúng ta đa phần chỉ thấy bề nổi của vấn đề, của sự việc sự vật [tức là những cái 'được'] mà đâu thấy rằng cái 'mất đi' [cho mình, cho người] mà so với cái 'có được' kia thật ví như trời với vực vậy. Cho nên chúng ta cần sáng suốt trong tu học.

 

Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên

Lời tựa sách A Di Đà Kinh Trực Giải

Đại Sư Ấn Quang

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.