Chánh kinh:
Ngã tác Phật thời, thọ mạng vô lượng. Quốc trung Thanh Văn, thiên, nhân vô số, thọ mạng diệc giai vô lượng. Giả linh tam thiên đại thiên thế giới chúng sanh, tất thành Duyên Giác, ư bách thiên kiếp, tất cộng kế giảo, nhược năng tri kỳ lượng số giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật, thọ mạng vô lượng. Trong nước tôi, Thanh Văn, trời, người vô số, thọ mạng cũng đều vô lượng. Giả sử chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành Duyên Giác, trong trăm ngàn kiếp cùng nhau tính toán mà biết nổi số lượng ấy thì chẳng lấy Chánh Giác.
(Nguyện mười lăm: Thọ mạng vô lượng; nguyện mười sáu: Thanh Văn vô số)
Giải:
Chương này gồm nguyện thứ mười lăm: “Thọ mạng vô lượng” và nguyện mười sáu: “Thanh Văn vô số”.
Trong nguyện thọ mạng vô lượng, không những thọ mạng của Phật vô lượng, mà vô số Thanh Văn, trời, người trong cõi ấy cũng đều thọ mạng vô lượng. Trong bản Ngụy dịch, nguyện này được tách ra làm hai, đủ thấy bốn mươi tám nguyện trong hội bản đây gói trọn bốn mươi tám nguyện đức của Phật Di Ðà, chi tiết hơn bất cứ bản cổ dịch nào.
Trong nguyện thứ mười lăm: “Thọ mạng vô lượng”, trước tiên kinh bảo vị giáo chủ cõi ấy thọ mạng vô lượng. Kinh Pháp Hoa nói về thọ mạng của Sơn Hải Huệ Như Lai như sau: “Thọ mạng vô hữu lượng, dĩ mẫn chúng sanh cố” (Thọ mạng chẳng hạn lượng vì thương xót chúng sanh). Ấy là vì nếu đức Phật chỉ trụ thế trong một thời gian ngắn thì sự giáo hóa cũng ngắn ngủi, chúng sanh khó thể gặp gỡ được. Giáo chủ ở lâu nơi đời thì hóa duyên vô cùng, lợi lạc chúng sanh vô tận. Vì vậy, ngài Trừng Hiến khen ngợi: “Phật thọ vô lượng là hạnh đức giáo hóa đến tột bực, ai lại chẳng khâm ngưỡng lời nguyện ấy hay sao?”
Hơn nữa, Di Ðà là Báo Thân Phật, Cực Lạc là báo độ (cõi của Báo Thân Phật ngự), giáo chủ thọ mạng vô lượng thì thật sự là vô lượng, chứ chẳng phải là vô lượng của hữu lượng (cụm từ “vô lượng của hữu lượng” chỉ con số Vô Lượng rất lớn được nói trong kinh Hoa Nghiêm, dẫu rất lớn nhưng vẫn tính đếm được, nên gọi là vô lượng của hữu lượng). Nói theo ngôn ngữ hiện đại, thọ mạng vô lượng là vô lượng tuyệt đối, chứ chẳng phải vô lượng một cách tương đối.
Tiếp đó, kinh văn bảo thọ mạng của nhân dân trong cõi ấy cũng vô lượng. Ngài Trừng Hiến khen: “Nhân dân thọ mạng vô lượng là đức tánh bậc nhất của Tịnh Ðộ”, rồi giải thích như sau: “Tu hành Phật đạo chỉ e sợ Tử Ma vì sự gián đoạn giữa sống và chết chính là căn nguyên tạo duyên thoái thất. Gặp Phật, nghe pháp, gặp gỡ thánh chúng, cúng dường chư Phật, thân cận bạn lành, khoái lạc tự nhiên, chẳng có các khổ, [cõi Cực Lạc] chẳng phải chỉ có một đức tánh ấy... Nếu thọ mạng ngắn ngủi, di hận khó tính nổi, khác nào chén ngọc không đáy. Lời nguyện này thật là tối quan trọng” (Chén ngọc đúng thật là của quý, nhưng thủng đáy thì chẳng ra cái gì). Ngài Vọng Tây cũng bảo: “Căn bản của các sự vui [nơi cõi Cực Lạc] chỉ thuộc nơi nguyện này”. Lại như Tịnh Ðộ Quần Nghi Luận bảo: “Nhân dân cõi ấy thọ cực dài lâu, dẫu cho là phàm phu vẫn còn thuộc biến dịch sanh tử (ý nói họ đã đoạn hết phần đoạn sanh tử, chỉ còn biến dịch sanh tử) nhưng cũng rốt ráo thành Phật”. Ðó là vì khi đã sanh về Cực Lạc, gặp Phật nghe pháp, trong hết thảy thời, hết thảy chỗ đều tăng thượng, chẳng có duyên thoái chuyển, thọ mạng lại vô lượng, nên chẳng luận là căn khí nào đi nữa, hễ sanh về cõi ấy sẽ quyết định thành Phật. Ðiều này được xưng tụng là đức tánh bậc nhất của Tịnh Ðộ kể cũng chẳng ngoa!
Nguyện thứ mười sáu là Thanh Văn vô số. Kinh chép: “Quốc trung Thanh Văn, thiên, nhân vô số” (Thanh Văn, trời, người trong nước vô số), ngài Trừng Hiến bảo: “A Di Ðà Phật có đệ tử vô lượng, đó là một trong ba thứ vô lượng”. Ba thứ vô lượng là quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng và quyến thuộc vô lượng. Lời nguyện chỉ nói đến Thanh Văn, nhưng ngụ ý kể cả Duyên Giác.
Nếu có kẻ ngờ vực: Kinh Bi Hoa dạy: “Vô hữu Thanh Văn, Bích Chi Phật thừa, sở hữu đại chúng thuần thị Bồ Tát, vô lượng vô biên” (Chẳng có Thanh Văn và Bích Chi Phật thừa. Tất cả đại chúng thuần là Bồ Tát vô lượng vô biên), sao kinh này lại bảo “Thanh Văn vô số”? Hai câu kinh này dường như mâu thuẫn nhau, nhưng nghĩa lý thật sự chẳng trái nghịch nhau. Với ba bậc vãng sanh, kinh này đều bảo “phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm”. Ba bậc vãng sanh đều đã phát Bồ Ðề tâm thì hạnh của họ phải thuộc Bồ Tát Thừa, nên kinh Bi Hoa bảo “thuần là Bồ Tát”. Trong cõi ấy, gọi là Thanh Văn, Duyên Giác là chỉ căn cứ trên mức độ đoạn được Hoặc Chướng mà nói: Tuy đã đoạn được Kiến Hoặc, Tư Hoặc, nhưng chưa phá nổi Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc thì gọi là Thanh Văn, chứ đâu phải là hạng Nhị Thừa chỉ cầu tự độ. Nếu chỉ cầu tự độ, chẳng nguyện độ người khác, làm sao phát nổi Bồ Ðề tâm? Chẳng phát Bồ Ðề tâm, chẳng được vãng sanh!
Tiếp theo đó, kinh lại dạy: “Giả linh tam thiên đại thiên thế giới chúng sanh tất thành Duyên Giác, ư bách thiên kiếp, tất cộng kế giảo, nhược năng tri kỳ lượng số giả, bất thủ Chánh Giác” (Giả sử chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành Duyên Giác, trong trăm ngàn kiếp chung nhau tính toán; nếu họ biết được số lượng ấy thì chẳng lấy Chánh Giác). Câu kinh này nêu tổng quát các ý nghĩa sau: Phật thọ vô lượng, nhân dân thọ mạng vô lượng, đệ tử trong nước ấy vô lượng.
“Tam thiên đại thiên thế giới” là cảnh giới hóa độ của một đức Phật. Lấy núi Tu Di làm trung tâm, gộp cả bốn đại châu, mặt trời, mặt trăng, chư thiên, ta có một thế giới. Gộp một ngàn thế giới như vậy lại, ta được một tiểu thiên thế giới. Gom một ngàn tiểu thiên thế giới lại, ta được một trung thiên thế giới. Gom một ngàn trung thiên thế giới lại, ta được một đại thiên thế giới. Do trước hết lấy một ngàn thế giới tạo thành một tiểu thiên, lại đem nhân tiểu thiên lên một ngàn lần thì được trung thiên, cuối cùng đem trung thiên nhân lên một ngàn lần thì được đại thiên; ba lượt đem nhân với một ngàn như thế nên đại thiên thế giới được gọi là “tam thiên đại thiên thế giới”. Thật sự chỉ là một đại thiên thế giới, chứ không phải là ba ngàn cõi đại thiên thế giới! Một tam thiên đại thiên thế giới có một ngàn ức (1.000.000.000) thế giới.
Hiện thời, các nhà thiên văn mới tạm thời phát hiện được trong vũ trụ có vô lượng thế giới. Hiện tại, ai cũng biết là mặt trời và chín đại hành tinh hợp thành một Thái Dương Hệ. Ðịa cầu chỉ là một ngôi sao xoay quanh mặt trời trong Thái Dương Hệ. Mặt trời chẳng những tự xoay mà nó còn đi vòng quanh trung tâm của một ngân hà tinh vân (hiện thời, khoa học tạm gọi đó là một hắc đỗng “black hole”) mất một thời gian ước chừng hai vạn vạn năm. Mặt trời chỉ là một hằng tinh trong dải tinh vân mang tên Ngân Hà. Dải Ngân Hà có chừng một ngàn ức hằng tinh. Trong vũ trụ có vô lượng tinh vân. Bản thân tinh vân cũng đang xoay vần, Ngân Hà cũng chỉ là một thiên thể lớn trong vũ trụ. Cứ tính rộng dần dần như thế chẳng biết đâu là cùng tận. Ðiều phát hiện mang tính cách sơ khởi của Thiên Văn học quả đã chứng thực điều kinh dạy: “Thế giới vô lượng”. Tam thiên đại thiên thế giới chỉ là cảnh hóa độ của một đức Phật, mà do chư Phật vô lượng nên thế giới cũng vô lượng.
Ðại ý của lời nguyện là: Giả sử hết thảy chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành Duyên Giác rồi dùng sức thần thông hợp lại để tính toán cũng chẳng thể biết nổi thọ lượng của Phật Di Ðà, thọ lượng của nhân dân cõi ấy và số lượng của người trong nước ấy.
Hình ảnh dải Ngân Hà có chứa Hệ mặt trời chúng ta (Milky Way). (Nguồn: Scientific American)
Trong đoạn đầu: Trong nguyện thọ mạng vô lượng, không những thọ mạng của Phật vô lượng, mà vô số Thanh Văn, trời, người trong cõi ấy cũng đều thọ mạng vô lượng.
Tất cả, Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, trời, người trong cõi ấy đều có thọ mạng vô lượng. Mà đã là "vô lượng" thì mãi cho đến khi thành Phật mới thôi, nhanh chậm, dài ngắn không cần biết. Tất cả đều rốt ráo thành Phật. Phật cũng có thọ mạng? Dĩ nhiên rồi, khi hết thọ mạng [ở cõi nào đó], các Ngài sẽ Nhập Diệt [Nhập Niết Bàn]. Riêng Đức Phật A Di Đà thệ nguyện của Ngài là "Thọ mạng vô lượng" [ở cõi ấy], như thế thì mới cứu độ được tất cả chúng sanh trong Thập phương khắp pháp giới quy tập về cõi nước Ngài, rồi thứ lớp đều rốt ráo viên mãn thành tựu Quả vị Phật.
Đoạn: Nguyện thứ mười sáu là Thanh Văn vô số. Kinh chép: “Quốc trung Thanh Văn, thiên, nhân vô số” (Thanh Văn, trời, người trong nước vô số), ngài Trừng Hiến bảo: “A Di Ðà Phật có đệ tử vô lượng, đó là một trong ba thứ vô lượng”. Ba thứ vô lượng là quang minh vô lượng, thọ mạng vô lượng và quyến thuộc vô lượng.
Nhân dân cõi ấy, về mặt thọ mạng là vô lượng, mà số lượng cũng vô lượng [không thể tính đếm]. Vì sao không thể tính đếm được? Ví dụ, số lượng người trên trái đất hiện nay là khoảng trên 7 tỉ người, một con số tính đếm được, số lượng giọt nước trên đại dương, số lượng hạt bụi trên quả địa cầu này, nếu làm phép nhân cấp dần lên, vẫn có thể tính đếm ra được con số cụ thể [dù rất lớn]. Nhưng số lượng nhân dân trên cõi ấy thì không thể tính đếm được, như đoạn Kinh văn nói: "Giả sử chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành Duyên Giác, trong trăm ngàn kiếp cùng nhau tính toán mà biết nổi số lượng ấy thì chẳng lấy Chánh Giác". Nguyên nhân là vì Thế giới Chư Phật là vô lượng, không thể tính đếm được, một Đức Phật hóa độ một Tam thiên đại thiên thế giới, thế nên Đức Phật A Di Đà ngài phải phát ra lời nguyện này "Thanh Văn vô số" [Thanh Văn là danh từ chỉ chung nhân dân cõi ấy vì tất cả đều từ bậc Thánh trở lên].
Lời Nguyện này mới đọc qua thấy cũng 'bình thường', không có gì, nhưng thật ra còn 'khó nhằn' hơn cả Nguyện bên trên. "Thọ mạng vô lượng", nghĩa là mãi cho đến khi thứ lớp thành Phật mới thôi, có thể tạm hiểu. Nhưng một cõi nước mà có thể dung chứa một số lượng chúng sanh vô cùng tận [không hạn lượng, không thể tính đếm] thì không biết thế nào nữa! Cõi nước ấy vẫn có vị trí, tọa độ hẳn hoi, ở Phương Tây [so với cõi Ta Bà], cách mười muôn ức cõi Phật. Nói thế để thấy rằng, tâm bi triệt để của Đấng Từ Phụ A Di Đà Phật, không biết Ngài phải tu nhân tích đức, tích công lũy đức bao nhiêu kiếp để hoàn thành được riêng cái nguyện này. Nếu không có cái Nguyện này thì chắc chắn không thể độ sanh khắp Pháp giới được. Và một điều chắc chắn nữa đó là, cõi ấy vượt trỗi hơn tất cả cõi Phật trong Thập Phương [một phần nhờ Nguyện này].
Đoạn tiếp theo:Tuy đã đoạn được Kiến Hoặc, Tư Hoặc, nhưng chưa phá nổi Trần Sa Hoặc và Vô Minh Hoặc thì gọi là Thanh Văn, chứ đâu phải là hạng Nhị Thừa chỉ cầu tự độ. Nếu chỉ cầu tự độ, chẳng nguyện độ người khác, làm sao phát nổi Bồ Ðề tâm? Chẳng phát Bồ Ðề tâm, chẳng được vãng sanh!
Tông yếu của bộ Kinh này là "Phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm", có hai vế, chẳng được thiếu sót một. Trong Tiểu Bản [A Di Đà Kinh], tông yếu là "Tín Nguyện, Trì Danh". Tín Nguyện tâm tức là tâm Vô Thượng Bồ Đề, trì danh tức là nhất hướng chuyên niệm. Tông yếu của cả hai bản Đại và Tiểu phải là một, chẳng thể hai, chẳng thể khác.
Chúng ta đây hằng ngày tu tập, hành trì, mong cầu vãng sanh, một mặt là được thoát ly sanh tử luân hồi [không còn đọa lạc, khổ đau nữa], một mặt là về được cõi ấy, sẽ chắc chắn tu trọn thành Phật đạo, tùy nguyện hóa độ vô lượng vô biên khắp Pháp giới chúng sanh. Đây mới là tâm Bồ Đề vô thượng, viên mãn rốt ráo [mà Chư Phật hằng mong đợi]. Dĩ nhiên, chúng ta đây còn ở cõi này, trên bước đường hành đạo cầu giải thoát, chúng ta phải ra sức "tự lợi, lợi tha", cùng cực lực giúp đỡ nhau cùng thành tựu [nếu hữu duyên], đấy gọi là "Thiện gặp được thiện, lợi ích rành rành".
Đoạn cuối, tác giả ngài chú giải một số văn tự trong Kinh giáo, như "Tam thiên đại thiên thế giới" [thật ra gọn là "đại thiên thế giới" thôi], rồi "Vô lượng thế giới" [Chư Phật]. Chúng ta thử so sánh một chút, Kinh giáo của Phật đã chỉ ra rành rẽ đến mức này rồi mà khoa học kỹ thuật của nhân loại đây còn đang nghiên cứu [thăm dò] rằng, liệu có sự sống nào ngoài trái đất nữa hay không?!
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ (trích lục)
Phẩm 6. Phát Đại Thệ Nguyện
Ngài Hoàng Niệm Tổ