Tín Nguyện Ức Niệm Quyết Định Sanh Về Nước Phật, Bao Nhiêu Người Tín Niệm, Bấy Nhiêu Người Vãng Sanh

NPSTD7

 

Tín Nguyện Ức Niệm Quyết Định Sanh Về Nước Phật, Bao Nhiêu Người Tín Niệm, Bấy Nhiêu Người Vãng Sanh

Ca tụng pháp môn Tịnh Độ thù thắng

(chỉ do pháp môn này thù thắng mà bà Trí Nghi được vãng sanh)

Bao nhiêu người tín niệm, bấy nhiêu người vãng sanh

Pháp môn Tịnh Độ dạy dỗ không phân biệt, phàm - thánh, trí - ngu đều được bình đẳng nhiếp thọ. Hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực, chỉ có mỗi pháp này hoàn toàn cậy vào Phật lực, Phật lực khác biệt tự lực một trời một vực. Tín nguyện ức niệm quyết định sanh về nước Phật. Bao nhiêu người tín niệm, bấy nhiêu người vãng sanh. Phật có lời thệ nguyện, nay đã tỏ lộ dấu hình: Nữ sĩ Trí Nghi tâm niệm Phật tha thiết, niệm chưa được mấy năm đã được Phật đón tiếp. Nguyện người thấy nghe ai nấy chăm chú tu trì, để dự vào hội Liên Trì, vui sướng nào hơn!

 

Ca tụng chuyện sanh Tây của cư sĩ Từ Úy Như

Nương nguyện về Tây, đại sự giải quyết xong
Cao cả thay ông Từ! Xưa đã trọn đủ huệ căn, hiếu hữu, nhân từ, tận hết bổn phận, trọn vẹn luân thường, nghiêm cẩn tuân theo lời tổ tiên giáo huấn, dốc lòng tin tưởng Phật pháp, tu hạnh niệm Phật, mong sanh cõi Tịnh. Tuổi trung niên tận lực đảm nhiệm việc khắc in kinh điển để nối tiếp huệ mạng của Phật hòng giúp cho cả Mật lẫn Hiển. Thời cuộc chẳng yên, càng ưa - chán thiết tha, nương nguyện về Tây, đại sự giải quyết xong, được Phật thọ ký, liền trở lại Sa Bà, tiếp dẫn khắp hàm thức cùng thân cận Di Đà. 

 

Ca tụng chuyện quy Tây của cư sĩ Khuất Tử Kiến 

(năm Dân Quốc 20 - 1931)

Đời đời thiện lương; trung hậu, khoan dung; chuộng nghĩa, khinh tài... nhưng chuyên trọng niệm Phật

Phật tâm và chúng sanh tâm, về bản thể vốn chẳng hai. Do nhân duyên mê - ngộ nên [tâm] chẳng khác mà [tướng] thành sai khác. Nếu chịu trái nghịch trần lao, kiêm trì thánh hiệu Phật, hễ được vãng sanh Tây Phương thì sẽ đích thân đến được bờ giác. Cao đẹp thay ông Tử Kiến! Túc căn thật sâu, thác sanh vào gia đình đời đời thiện lương, giữ tấm lòng trung hậu, khoan dung. Chuộng nghĩa, khinh tài, thân - sơ đều bình đẳng quan tâm. Có tư cách lỗi lạc, nhưng chuyên trọng niệm Phật. Tịnh nghiệp đã chín muồi, biết trước lúc nào sẽ đi, quyến thuộc đều nhất tâm niệm Phật tương trợ. Vì thế, được nương nhờ Phật lực vãng sanh cõi Cực Lạc. Di tướng càng thêm rạng rỡ, ai nấy đều khen là lạ lùng, đặc biệt. Các hành nhân đời Mạt muốn thoát khỏi bẫy sanh tử, chỉ có một pháp Niệm Phật là có thể dự vào bậc thánh trong đời này. Nêu toát yếu đại lược hòng lưu lại vĩnh viễn cho con cháu, mong ai nấy đều noi theo đức của người xưa thân cận Di Đà Thế Tôn.

 

Bài ca tụng nhân dịp minh thọ trăm tuổi của cụ Tề Dữu Nam và Kim phu nhân

Cầu siêu mong cha mẹ được vãng sanh
Ông Tề hiếu hữu đức siêu quần, phu nhân càng giúp nêu gương thơm. Chớ bảo bình sinh lo buôn bán, phải biết toàn thân đầy học thức. Học thức ấy thật sự có thể lưu tiếng thơm suốt cả một đời. Tiếc chưa được nghe Phật pháp, ngộ nguồn tâm. May có con cháu vừa hiền vừa hiếu, cầu siêu mong cha mẹ được sanh về cõi trời Cực Lạc. Cực Lạc vui sướng khôn lường! Luôn được đích thân chầu hầu bậc cổ Giác Hoàng. Chứng Vô Sanh Nhẫn nương Bi nguyện, riêng đến cõi này làm thuyền Từ. Thuyền Từ thả trong biển khổ, khiến cho khắp mọi người về Tây bỏ Đông. Đến ngày tự lợi lợi tha đều viên mãn, sẽ trong pháp giới xưng Đại Hùng.

 

nnpnnp55

Đoạn đầu: Pháp môn Tịnh Độ dạy dỗ không phân biệt, phàm - thánh, trí - ngu đều được bình đẳng nhiếp thọ. Hết thảy pháp môn đều cậy vào tự lực, chỉ có mỗi pháp này hoàn toàn cậy vào Phật lực, Phật lực khác biệt tự lực một trời một vực. 

Sự khác biệt của Tịnh Độ so với các Pháp môn khác đó là ở chỗ Phật lực và Tự lực hành giả. Muốn thấy sự khác biệt [khó - dễ, nhanh - chậm] như thế nào thì cứ 'tạm' hình dung sự khác biệt giữa Sức Phật, Trí Phật với Sức người, Trí người thì sẽ thấy được phần nào! Điều cốt lõi cũng là quan trọng nhất đó chính là chúng ta làm thế nào để 'tận dụng' được Sức Mạnh này đây, được như thế chắc chắn sẽ thành tựu [vãng sanh] ngay trong đời. Trong các kinh giáo, trước thuật gọi là "cảm ứng đạo giao". Mà muốn được "cảm ứng" [Sức mạnh này] thì phải hành trì pháp Tín Nguyện, Niệm Phật. Đây cũng là Tông chỉ của Tịnh Độ tông.

Do đó chúng ta thấy, Pháp môn này "không phân biệt, phàm - thánh, trí - ngu đều được bình đẳng nhiếp thọ", không luận ở hành giả [là ai], miễn là hành trì có "cảm ứng đạo giao" là được [nhiếp thọ]. Dĩ nhiên, như trên đã nói, làm thế nào để được cảm ứng đạo giao, đây là việc của hành giả đương nhân, phải hun đúc Tín tâm Nguyện tâm cho chân thật, đầy đủ, để rồi thúc đẩy việc siêng năng hành trì, giữ vững cả đời không thối chuyển. Đây là việc hành giả chúng ta phải ra sức dụng công tu tập thật nghiêm túc. Ví dụ, việc gầy dựng, giữ vững Tín tâm thôi mà nếu chúng ta không chân thật, nghiêm túc tu học thì thật khó để 'đầy đủ'. Phật nói pháp này khó tin, hầu như tất cả chúng ta đây chưa bao giờ 'đạt' được điều này trong quá khứ cả, nên cứ phải trôi lăn trong lục đạo này mãi, cho nên đời này muốn thoát ra, không còn cách nào khác chúng ta phải nghiêm túc tu học [để đạt được điều này]. Còn trong trường hợp cả đời vẫn chưa đạt được việc "bất sanh nghi hoặc" này thi đành phải cậy vào Pháp Hộ Niệm lúc cuối thôi. Lúc đó thì không thể đoán định được nữa, tùy theo nghiệp duyên mỗi người, cũng có thể tỉnh táo cũng có thể mê mờ, có thể bình tâm cũng có thể điên cuồng bấn loạn... Nếu nhỡ như rơi vào trường hợp xấu ngặt, thì thiện hữu đồng tu hay ban Hộ Niệm nào cứu nổi đây. Cho nên muốn chắc ăn thì hãy gầy dựng, giữ vững Tín Nguyện cho đầy đủ rồi thúc đẩy dụng công ngay từ lúc bình thời này mới nên. Thế nên, Chư Phật Chư Tổ đều ra sức khuyên răn mọi người hãy "tinh tấn khó nhọc một đời ngắn ngủi", "lấy Tín nguyện niệm Phật làm chí hướng sự nghiệp trong đời", chấp nhận 'hy sinh' những thù tạc vui thú danh lợi của thế gian này đi vậy, hãy tìm niệm vui trong pháp vị, trong sự buông bỏ 'không cần', trong lý tưởng sự nghiệp [được giải thoát]...

Câu "Tín nguyện ức niệm quyết định sanh về nước Phật. Bao nhiêu người tín niệm, bấy nhiêu người vãng sanh". "Tín nguyện, ức niệm" tức là Tín nguyện, niệm Phật cho nhiều [siêng năng, tha thiết]. Nếu quả thực Tín Nguyện đầy đủ chân thật thì các Ngài nói là "Bao nhiêu người tu, bấy nhiêu người vãng sanh", thật sự, không sót người nào cả.

Trong đoạn hai, ông Từ Úy Như lúc bình thời chuyên trách việc in ấn bộ Văn Sao, An Sỹ Toàn Thư v.v... cùng ra sức tu trì Tịnh nghiệp, học tập Chư Tổ. Ông Từ căn tánh thậm sâu, nhân duyên thù thắng, tận tâm tận lực vì chúng sanh, tự lợi lợi tha, cuối đời vãng sanh thù thắng. Nương Phật lực cầu sanh, một đời liễu thoát sanh tử, giải quyết xong đại sự, được Phật thọ ký.

Chúng ta hiện tại phần đông chắc căn cơ, nhân duyên không bằng ông ta nhưng yên tâm, pháp Phật là "nhiếp thọ bình đẳng" nên chỉ cần nghiêm túc, chân thật tu học, Phật sự thì tùy duyên, tùy phận tùy lực thôi [đừng phan duyên, cưỡng cầu] ắt sẽ toại nguyện "chuyện lớn" này vậy.

Các đoạn còn lại chúng ta cùng đọc kỹ mà học tập, có nhiều nội dung rất quan trọng.

 

Văn Sao Tục Biên

Đại Sư Ấn Quang

Như Hòa chuyển ngữ 

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.