Trích Lược Về Vài Môn Đồ Nổi Bật Của Pháp Nhiên Thượng Nhân

NPSTD7

 

Trích Lược Về Vài Môn Đồ Nổi Bật Của Pháp Nhiên Thượng Nhân

Thượng nhân Nhất Biến cùng Thượng nhân Chứng Không, Thượng nhân Thân Loan đều là những vị Tổ sư, và là môn đồ của Thượng nhân Pháp Nhiên, các vị Tổ sư này, khi tại thế xét về học thức, Trí tuệ và sở chứng thì tương đương nhau, xét về sự giáo hóa thì rất thành công, vượt xa các Đại sư Tồn Giác, Đại sư Giác Như ở thời đại kế tiếp.

* Thượng nhân Nhất Biến trú thế không lâu, chỉ thọ 51 tuổi. Điều này có thể do tâm niệm cứu khổ quá thắm thiết, và đi bộ quá nhiều, khắp cả nước để giáo hóa mọi người; bằng chứng như, suốt đời Thượng nhân không có một chỗ ở cố định, ăn uống luôn thiếu thốn, lại thêm nhiều năm dãi gió dầm mưa, vượt sông băng rừng dẫn đến thân thể mệt nhọc yếu gầy, do vậy mà thọ mạng không thể dài lâu. Đồng thời, cũng có thể do tâm niệm của Thượng nhân chán ghét cõi Ta-bà quá mạnh mẽ nên muốn sớm xa lìa; và thắm thiết nguyện cầu vãng sanh Cực lạc, mà thân như mây bay nước chảy không chút ngại ngùng, một ngày kia duyên đến thì tự tại ra đi. Thượng nhân Pháp Nhiên bảo: “Thương khách đợi trời sáng, nghe gà gáy thì vui mừng; hành giả ước nguyện sanh Cực lạc, gặp bệnh hoạn thì hân hoan”. Đây chính là sự kiện biểu hiện tâm nguyện tha thiết của Thượng nhân nguyện cầu vãng sanh Cực lạc và chán ghét muốn xa lìa cõi trần thế vậy.
Trước khi vãng sanh và sau khi tụng xong Kinh A-di-đà, Thượng nhân lấy những Kinh điển và các tác phẩm mà mình đã trước tác giao lại cho Bính Đinh và bảo: “Hết thảy Thánh giáo rốt cuộc quy kết trong một câu Nam mô A-di-đà Phật”. Thượng nhân lấy hành vi này để biểu thị lời di chúc của mình khi lâm chung. Vậy nên, một đời giáo hóa của Thế Tôn đều gói trọn trong Sáu chữ, Sáu chữ danh hiệu ẩn chứa lời dạy một đời của Thế Tôn. Người thông hiểu các tông phái, thông hiểu giáo lý mà không nương tựa đức Phật A-di-đà thì không được vãng sanh; hạng ngu phu ngu phụ chỉ xưng niệm danh hiệu mà sớm chứng Niết bàn. Đại sư Liên Trì bảo: “Vượt qua Ba A-tăng-kỳ kiếp ở trong một niệm, sánh bằng chư Thánh ở nơi nửa câu”. Đại sư Ấn Quang bảo: “Chớ ngờ một tiếng vượt qua Thập địa, nên biết Sáu chữ gói trọn Tam thừa”. Cổ Đức bảo: “Không cần Ba A-tăng-kỳ để tu phước huệ, chỉ nhờ Sáu chữ thoát khỏi Tam giới”.
* Pháp hiệu của Thượng nhân Chứng Không là Thiện Huệ, Ngài là đệ tử thượng túc của Thượng nhân Pháp Nhiên; có thể nói Ngài là vị có túc duyên rất sâu dày, vì trong đời. Có đến mười một lần được Bồ-tát Quán Thế Âm hiện thân khen ngợi. Vào năm 14 tuổi, Ngài từ chối nghi thức đội mũ để thành nhân (theo tập quán Nhật Bản), mà chủ động đến thỉnh cầu Thượng nhân Pháp Nhiên được xuất gia, Thượng nhân Pháp Nhiên rất hoan hỷ thâu nhận được người đệ tử tài giỏi; từ đó, hằng ngày thân gần hướng dẫn chỉ bảo. Ngài vốn là người vừa tuấn tú, vừa thông minh bẩm sinh, những gì được nghe - thấy, không điều nào là không hiểu rõ minh bạch. Được thân cận với Thượng nhân Pháp Nhiên một thời gian khá lâu - hai mươi ba năm, nên được thừa hưởng giáo nghĩa Tịnh Độ từ Thượng nhân rất đầy đủ; đặc biệt, ngài Chứng Không rất hoan hỷ với tác phẩm Quán Kinh Sớ của Đại sư Thiện Đạo, nên gia công nghiên cứu đến tận cội nguồn, bằng cách đọc, tư duy và tra cứu nhiều lần. Trong thời gian Thượng nhân Pháp Nhiên viết quyển Tuyển Trạch Tập đã nhờ Ngài tra cứu và sửa chữa câu văn; đồng thời, thường đại diện Thượng nhân Pháp Nhiên đến phủ của Tể tướng đương thời là Đằng nguyên Kiêm thuyết giảng giáo nghĩa Tịnh Độ. Bên cạnh, lại vì Thiên Hoàng, Hoàng Thái Hậu trao truyền Giới pháp, và các đời Thiên Hoàng đã ban tặng huy hiệu cho Ngài là Di Thiên Quốc Sư, Giám Tri Quốc Sư. Về bài Trấn An Tu Tập này, được viết chính là do ông Đạo Giác thân thích của Thiên Hoàng yêu cầu. Nói về đạo hạnh và kiến thức của Ngài thì rất thâm hậu siêu việt, mọi người trong Hoàng thất ai cũng tôn kính ngưỡng mộ.

Trước khi Thượng nhân Pháp Nhiên vãng sanh đã trao đệ tử môn đồ cho Ngài thay thế hướng dẫn, nếu ai thắc mắc gì về giáo nghĩa Tịnh Độ thì đến thưa hỏi. Nên biết, Ngài đã thừa hưởng được tài năng và đức độ rất sâu dày từ Thượng nhân Pháp Nhiên.
Khi Chánh nhân vãng sanh đã tròn đầy mà Chánh hạnh của Ngài vẫn tinh tấn, mỗi ngày Ngài xưng niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà đến sáu vạn biến (câu), dù đến nửa đêm vẫn chưa đi ngủ, sáng sớm lại tiếp tục thầm nghĩ về pháp Tịnh Độ và xưng niệm danh hiệu đức Phật, cứ như thế không một chút giãi đải, thối thất.
Năm 71 tuổi, Ngài biết rõ thời điểm vãng sanh đã đến, vào sáng sớm ngày 26 tháng 11, Ngài đắp y hậu cùng đại chúng tụng kinh A-di-đà. Tụng xong, Ngài nói về Bổn nguyện của đức Phật; sau đó, ngồi thẳng hướng mặt về hướng Tây, đối diện với tượng đức Phật A-di-đà, Ngài niệm Phật đến chánh Ngọ rồi chắp tay tự tại vãng sanh, những điềm lành hiện ra rất nhiều.
Suốt đời, Ngài đã xây dựng tự viện đến 11 ngôi, trước thuật rất đa dạng có đến hơn 100 quyển. Đệ tử của Ngài rất nhiều, mỗi người hoằng hóa nổi tiếng một phương.
* Thời gian trước 29 tuổi, Thượng nhân Thân Loan ở tại Tỷ Duệ sơn tu tập theo giáo nghĩa Thiên Thai, đến năm 29 tuổi gặp được Thượng nhân Pháp Nhiên và tiếp nhận giáo nghĩa Bổn nguyện của đức Phật A-di-đà. Vào năm 58 tuổi, Thượng nhân lâm bệnh, sốt nặng mê man suốt ba ngày, trong khi hôn mê tâm thức Ngài thấy rõ xưa nay mình nỗ lực tu tập, nhưng vẫn như cũ chẳng chút tiến bộ. Điều ấy do bởi vào năm 43 tuổi, Ngài đã phát nguyện tụng ba bộ Kinh Tịnh Độ mỗi bộ một ngàn biến, để hồi hướng cúng dường cầu nguyện cho quốc gia đang bị chiến tranh loạn ly, đồng bào đói khát tử nạn, trong đó có nhiều bà con thân thuộc. Với tâm niệm rất mạnh mẽ đã được gieo trồng như thế, đến giờ đây khi hôn mê mới thấy rõ; đồng thời, lại mộng thấy được diện kiến với Đại sư Thiện Đạo, được Ngài dạy: “Hãy Thuần nhất tinh chuyên xưng niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà; ngoài ra, hãy dùng Đức tin của mình hướng dẫn người khác tin tưởng, tu tập như vậy là trọn vẹn không thiếu sót gì nữa, không có công đức nào có thể so sánh được, vậy tại sao lại chọn tụng Kinh tu theo Trợ Nghiệp, Trợ hạnh? Nghĩa là, khi được nghe danh hiệu đức Phật A-di-đà đầy đủ uy thần công đức vô lượng, thì tinh chuyên thực hiện Niệm Phật, chứ không cần tu thêm Trợ Nghiệp nữa”. Qua đây, năm 58 tuổi này, Thượng nhân mới thuần nhất hoàn toàn tiến sâu vào thế giới Tha lực của đại nguyện thứ 18.
Đoạn văn Pháp Nhĩ Tự Nhiên này, là tư tưởng đã tròn đầy của tuổi lão niên 86 mà Thượng nhân Thân Loan viết ra. Vào năm 88 tuổi, Thượng nhân sửa chữa lại, sau khi đem vào Tam Thiếp Hòa Tán thì trở thành phần Tổng kết. Ấy thế, đoạn văn này cũng có thể gọi là tuyệt bút của Thượng nhân Thân Loan vậy.

 

thanloan22

Ngài Thân Loan

 

Trích, lục Niệm Phật Nhất Định Vãng Sanh

Pháp sư Huệ Tịnh tuyển thuật - Pháp sư Tịnh Tông biên đính

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.