Bài ký về chuyện vãng sanh của cư sĩ Triệu Tôn Nhân
Làm việc quả quyết, thật thà, dùng lòng thành để cảm
Triệu Tôn Nhân pháp danh là Bồi Canh, người ở thành phố Mã Đường Như Cao, tuổi ngoài ba mươi, theo đuổi nghề buôn bán, tánh tình thuần hòa, chân thật, không trá ngụy, làm việc quả quyết, thật thà. Mấy năm gần đây được nghe pháp môn Tịnh Độ bèn sanh lòng tin tưởng sâu xa, hằng ngày lấy chuyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương làm chánh, gác qua chuyện buôn bán, chuyên làm chuyện từ thiện công ích hết sức tích cực. Do vậy, đề xướng lập ra Tế Sanh phân hội và Phật Kinh Lưu Thông Xứ. Hễ có các chuyện lành nào đều tận lực lo liệu, không chuyện gì không làm. Đối với đèn đường ở địa phương, đích thân ông sáng thâu về, tối đi thắp lên, chẳng nề mệt nhọc. Người cả một phương đều cảm phục lòng thành của ông. Ông dùng lòng thành để cảm, mọi người dùng lòng thành để ứng. Phàm khi ông quyên mộ, không ai chẳng thuận theo hầu viên thành ý nguyện cho ông.
Tinh tấn, vãng sanh
Mùa Đông năm Dân Quốc 15 (1926), ông mắc phải bệnh ngặt, vẫn gượng đè nén cơn bệnh đề xướng Phật thất để cầu thế giới thái bình, dự định khởi thất vào ngày mồng Hai tháng Chạp, đến ngày mồng Tám là viên mãn, thỉnh sư Phạm Thành chùa Tây Phương ở Quật Cảng làm Chủ Thất, chi phí đều do thiện tín tự đóng góp, người dự hội niệm Phật hơn bốn mươi người. Cư sĩ tuy đang bệnh nặng nhưng niệm Phật càng thêm tinh tấn như người không bệnh. Đến bảy giờ tối ngày mồng Sáu bèn ngồi niệm Phật qua đời. Những người đang tham dự hội càng thêm khẩn thiết niệm Phật, giúp cho ông được vãng sanh. Sau mấy tiếng đồng hồ, đỉnh đầu vẫn còn ấm, vẻ mặt chẳng khác gì lúc sống. Từ đây, ta thấy được Di Đà nguyện lực, chúng sanh tâm lực, cả hai thứ đều chẳng thể nghĩ bàn. Ấy là vì Chân Như Phật Tánh chúng sanh vốn sẵn có, chỉ nhờ vào nhân duyên để khải phát mà thôi! Như hạt giống đã gieo xuống đất, gặp mưa đúng thời bèn nảy mầm. Những kẻ trong cõi đời dùng sức Chân Như Phật Tánh để hằng ngày theo đuổi tham - sân - si, giết - trộm - dâm ví như đem châu Ma Ni tùy ý tuôn ra các thứ báu quăng trong hầm xí, nên chẳng thể thụ dụng được, chẳng đáng buồn ư? Nghe đến phong thái của cư sĩ há chẳng thẹn đến chết ư?
Bài ký về chuyện vãng sanh của cư sĩ Sa Kiện Am
Trọn hết bổn phận, gặp gỡ duyên lành Tịnh Độ, soạn luận Bài Xích Tệ Ăn Thịt Uống Rượu
Ông Sa Kiện Am tên là Nguyên Bỉnh, người xứ Như Cao, tỉnh Giang Tô, phẩm hạnh, tu dưỡng, văn chương, đạo nghĩa thảy đều đáng nêu gương cho đời Mạt. Cái học của ông trọng nơi tận lực thực hành chứ không chuộng từ chương, chí chuyên chú nơi tận hết bổn phận, chẳng hâm mộ vinh hoa, ân sủng. Vì thế, sau khi đỗ đạt bèn ở nhà thờ cha mẹ cho trọn hết phận con, chẳng ra làm quan. Thoạt đầu ông chẳng biết Phật là người như thế nào, kinh có nghĩa như thế nào, bèn theo đuổi những thuyết của Hàn, Âu, Trình, Châu, cho rằng Phật pháp có hại cho thánh đạo, chẳng có ích gì cho nước, cho dân. Đến sau cuộc quốc biến năm Tân Hợi (1911), buồn bã khôn khuây, thường mang ý tưởng vượt thoát cõi đời, bèn thử đọc kinh Phật, thấy nghĩa lý tinh vi áo diệu, viên dung siêu thoát, mới biết Phật là vị đại thánh nhân, giáo pháp của Ngài có những chuyện chẳng thể nghĩ bàn, như thoát ra khỏi hang tối được thấy mặt trời, khôn ngăn mừng rỡ, nhưng lại hết sức bi thương, tiếc cho mấy mươi năm chấp nhặt, hèn tệ. Từ đấy, âm thầm nghiên cứu, thọ trì, đọc tụng để mong đích thân chứng được Phật tánh sẵn có, chẳng đến nỗi thường làm người luân hồi trong lục đạo.
Năm Dân Quốc 12 (1923), tức năm Quý Hợi, tuổi tròn hoa giáp (sáu mươi), tâm yếm thế càng thêm khẩn thiết, gặp đúng dịp pháp sư Đế Nhàn đến đất Như giảng A Di Đà Kinh Yếu Giải, đích thân được nghe giảng, biết được pháp môn Tịnh Độ hoành siêu là đạo để bậc đại thánh Đẳng Giác, tiểu phàm nghịch ác đều cùng trong đời này cậy vào Phật từ lực thoát khỏi Sa Bà lên cõi Cực Lạc, tùy theo căn tánh mà được chứng nhập. Do vậy, bèn chuyên tu Tịnh nghiệp để cầu vãng sanh. Năm sau, Thôi Ích Vinh lên núi quy y, có kể cho Quang nghe về học vấn, tu trì của cư sĩ, do vậy bèn nhờ ông Thôi đem bộ Văn Sao tặng cho ông ta. Năm sau nữa, Trần Chánh Hữu đem bản luận Bài Xích Tệ Ăn Thịt Uống Rượu Trong Tang Lễ do ông Sa soạn đưa cho đọc, thấy trích kinh dẫn sử rõ ràng, khúc chiết, biết cái học của cư sĩ có căn bản, chí mong thành thánh thành hiền, tuy chưa gặp gỡ nhưng tâm hai bên như đã có mối thần giao [cách cảm]. Mùa Hạ năm ngoái, nghe Quang đến đất Hỗ (Thượng Hải) muốn đến gặp mặt, nhưng vì bệnh không ra khỏi cửa được nên chẳng thỏa nguyện, vẫn mong có ngày khác lên núi hỏi han. Đến lúc sắp lâm chung, chuyện trò cùng bè bạn vẫn lấy đó làm điều tiếc nuối. Nhưng đã sanh Tây Phương, thân cận Di Đà, dự vào hải chúng thì chẳng gặp được ông Tăng chỉ biết có cơm cháo này há có thiếu sót chi!
Túc nghiệp phát sanh [phải trả], dặn dò hộ niệm hậu sự, vãng sanh thù thắng
Đến mùa Thu, nách trái ông mọc cái ung, tiếp đó ho ra máu, đến mùa Đông càng nặng. Thuốc Tây lẫn thuốc Tàu đều vô hiệu, há chẳng phải là do sức tu trì nên chuyển báo nặng đời sau thành báo nhẹ trong đời này để giải quyết cho xong túc nghiệp đấy chăng? Đến ngày Mười Một tháng Chạp, nằm bẹp trên giường không dậy được, bèn đem những trước tác lúc bình thời giao phó cho môn nhân là Hạng Bản Nguyên, Hoàng Văn Tuấn, dặn dò đại lược việc nhà, hơi hối hận chuyện trước kia đã phạm lỗi tán thành biến chùa Quảng Phước thành nơi họp hành, dời tượng Phật đi chỗ khác, sai con ông là Tấn bỏ ra ba ngàn đồng sửa chữa Phật điện của Quảng Huệ Am ở Đông Môn để chuộc lỗi trước. Lại bảo quyến thuộc trong nhà ngày đêm thay phiên niệm Phật trước giường đến khi ông lâm chung cũng vẫn như thế, chẳng được tắm rửa, thay áo sẵn cũng như khóc lóc v.v… Liệm bằng vải thô, đừng dùng trừu, đoạn. Đám tang bất luận cúng quải hay đãi khách chẳng được dùng rượu thịt, “ta thường soạn luận trách đời, các ngươi chớ tùy thuận thói ác, hãm ta vào tội!” Lại thỉnh Tăng trợ niệm để cầu cậy Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Lập hương án trước giường, thờ tượng Phật A Di Đà tiếp dẫn, mặt nhìn vào từ dung, miệng niệm, tâm nhớ, chuyên tinh nhất trí, không đề cập đến chuyện gì khác. Đêm Hai Mươi Bốn, bệnh càng nguy ngập, Tăng chúng đều đến trợ niệm, cư sĩ chánh niệm phân minh, hoặc niệm ra tiếng hoặc thầm niệm theo. Đến ngày Hai Mươi Sáu, tuy chẳng nghe tiếng, miệng vẫn luôn mấp máy. Đến chiều, khí càng suy, người nhà và Tăng chúng càng niệm khẩn thiết. Đến giờ Dậu, chợt qua đời, thoảng có mùi hương lạ. Đại chúng niệm Phật càng mạnh mẽ, hơn hai tiếng sau đỉnh đầu vẫn ấm, đến sáng hôm sau mới dứt tiếng niệm Phật để tắm rửa thay áo tẩn liệm, cất tiếng khóc. Con ông vâng lời dạy không trái nghịch, có thể nói là chân hiếu.
Trung Phẩm Thượng Sanh?
Ôi! Như cư sĩ có thể nói là túc căn sâu dầy, kiến địa cao siêu, ngôn hạnh tương ứng, trong - ngoài như một. Dựa theo mấy năm tu trì ấy và tín nguyện bình sinh, cảnh tượng khi lâm chung, có lẽ là Trung Phẩm Thượng Sanh đó chăng? Bởi lẽ ông hiếu dưỡng cha mẹ, làm điều nhân từ thế gian, đầy đủ tín nguyện thật sự, nhiếp tâm tịnh niệm. Một khi được vãng sanh ắt đạt địa vị Bất Thoái, chứng Vô Sanh Nhẫn, tu tập dần dần cho đến viên mãn Bồ Đề mới thôi, há còn tiếc nuối chi? Ở đây, tôi ghi lại tóm tắt những gì học trò ông là Hạng Bản Nguyên, con ông là Tấn, và học trò của tôi là Thôi Ích Vinh đã thuật, để sau này tập hợp thành Vãng Sanh Truyện và Ẩn Sĩ Sự Tích, nên mới có bài này.
Chư Tổ dạy, hành giả Tịnh Độ thì tâm nên khế hợp, tương ưng với tâm Phật [biết lỗi liền sửa, thấy việc nghĩa ắt làm, dùng thành - kính đối đãi,...], như thế mới nên, mau tiến tấn, dễ cảm thông. Pháp môn này là Pháp phải nương cậy vào Phật từ lực mới thành tựu giải thoát được, nên cần ở chỗ tu Lục Hòa dữ lắm. Lấy Tín - Nguyện - Hạnh làm Tông, nhưng để đạt được cái 'Tông' ấy một cách đầy đủ và quan trọng là giữ vững nó suốt cả một cuộc đời [ô trọc] này thì cần [tu] trợ duyên nhiều thứ lắm, khác hẵn với các Pháp tu tự lực như Thiền, Giáo...
Các Cư sĩ trên bình sinh làm nhiều việc nghĩa cho đời, tín nguyện đầy đủ, tinh tấn hành trì, dạy người, cuối đời vãng sanh thật thù thắng. Riêng công phu thì ở mức tịnh niệm tiếp nối thôi, chưa đạt tới nhất tâm [sự, lý...] nên chưa thể dự vào hàng Thượng Phẩm được, như chư Tổ có nêu. Dù cho phẩm vị nào, vãng sanh là vĩnh viễn lìa khổ được vui, là liễu sanh thoát tử, là Bất thoái, là một đời thành Phật cứu độ chúng sanh... Quả thật là thù thắng biết bao!
Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên
Đại sư Ấn Quang