Chánh kinh:
Ký nhiếp thọ dĩ, phục nghệ Thế Tự Tại Vương Như Lai sở, khể thủ lễ túc, nhiễu Phật tam táp, hiệp chưởng nhi trụ, bạch ngôn:
- Thế Tôn, ngã dĩ thành tựu trang nghiêm Phật độ, thanh tịnh chi hạnh.
Phật ngôn:
- Thiện tai! Kim chánh thị thời, nhữ ưng cụ thuyết, linh chúng hoan hỷ, diệc linh đại chúng, văn thị pháp dĩ, đắc đại thiện lợi, năng ư Phật sát, tu tập nhiếp thọ, mãn túc vô lượng đại nguyện.
Ðã nhiếp thọ xong, lại đến chỗ Thế Tự Tại Vương Như Lai, dập đầu lễ dưới chân Phật, nhiễu Phật ba vòng, đứng chắp tay, bạch rằng:
- Bạch Thế Tôn, con đã thành tựu hạnh thanh tịnh trang nghiêm cõi Phật.
Phật khen:
- Lành thay! Nay chính là đúng lúc, ông nên thuật đủ, khiến cho đại chúng hoan hỷ, cũng khiến cho đại chúng nghe pháp ấy xong được đại thiện lợi, có thể tu tập, nhiếp thọ cõi Phật, đầy đủ vô lượng đại nguyện.
Giải:
Câu “ký nhiếp thọ dĩ” (đã nhiếp thọ xong) là câu để nối kết đoạn kinh trước với đoạn kinh này. Khi đó, Pháp Tạng Bồ Tát lại đến chỗ đức Thế Gian Tự Tại Vương Phật. “Khể thủ” là cúi đầu sát đất. “Lễ túc” là dùng đầu mình áp sát chân Phật. Kế đó, nhiễu Phật cũng là cách kính lễ.
“Tam táp” là nhiễu quanh Phật ba vòng, biểu thị ý trân trọng hành lễ. Đi nhiễu xong liền chắp tay đứng yên trước Phật, hướng về đức Phật bạch rằng: “Ngã dĩ thành tựu trang nghiêm Phật độ, thanh tịnh chi hạnh” (Con đã thành tựu hạnh thanh tịnh trang nghiêm cõi Phật). Phật khen “thiện tai!” (lành thay), ý nói: Hạnh của tỳ-kheo Pháp Tạng thật vừa ý thánh tâm, thông suốt bổn hoài của Phật, ứng trọn các căn cơ nên được Phật khen ngợi, chấp thuận. “Thiện tai!” là tiếng biểu lộ sự vui mừng rất sâu của Phật.
“Kim chánh thị thời” (Nay chính là đúng lúc): Do thời cơ chín muồi để gom ba thừa về một thừa, hành giả cả ba thừa cùng được hưởng xe trâu trắng lớn, cùng nhập một Như Lai Thừa để khai tri kiến Phật, chỉ bày tri kiến Phật cho các chúng sanh nên kinh Pháp Hoa nói: “Kim chánh thị thời!” Trong kinh này cũng thế, muốn cho thập phương cửu giới chúng sanh cùng nhập Nhất Thừa đại thệ nguyện hải của Phật Di Ðà, hết thảy hàm linh đều được độ thoát, nên Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai bảo: “Kim chánh thị thời, nhữ ưng cụ thuyết, linh chúng hoan hỷ, diệc linh đại chúng văn thị pháp dĩ, đắc đại thiện lợi” (Nay chính là đúng lúc, ông nên thuật đủ khiến đại chúng hoan hỷ, cũng khiến cho đại chúng nghe pháp ấy xong được đại thiện lợi). Như Lai có ý khuyên Pháp Tạng tuyên thuyết để toàn bộ đại chúng được lợi ích. Hai chữ “đại chúng” bao gồm đại chúng hiện diện khi ấy lẫn hết thảy phàm phu, Nhị Thừa và Bồ Tát trong đời tương lai (bọn phàm phu chúng ta ngày nay cũng nằm trong số này). Nói ra sẽ khiến cho khắp đại chúng được nghe cùng phát nguyện vãng sanh, mau vượt khỏi biển khổ sanh tử nên “linh chúng hoan hỷ” (khiến cho đại chúng hoan hỷ); cũng khiến cho đại chúng nghe pháp được lợi ích, phát trọn khắp cái nguyện của Di Ðà, học theo hạnh của ngài Pháp Tạng, nhiếp thủ cõi Phật, viên mãn đại nguyện.
Tịnh Ảnh Sớ giảng: “Pháp Tạng tự nói nguyện của mình xong khiến các Bồ Tát học theo Ngài cùng phát nguyện”. Sách Hội Sớ cũng nói: “Bồ Tát nghe xong tự phát tâm dũng mãnh. Ông ta là trượng phu, ta cũng vậy; ông ta đã phát nguyện nhiệm mầu, ta há chẳng bằng ông ta sao? Vì vậy, nguyện của Pháp Tạng làm duyên viên mãn đại nguyện [của đại chúng].
“Mãn túc vô lượng đại nguyện” (Đầy đủ vô lượng đại nguyện) là viên mãn hết thảy chí nguyện. Sách Vãng Sanh Luận Chú viết: “Viên mãn một nguyện vãng sanh Tịnh Ðộ chính là viên mãn hết thảy các chí nguyện, nên bảo là: Mãn túc vô lượng đại nguyện”. Ðàm Loan đại sư (tác giả sách Vãng Sanh Luận Chú) quả thật đã giãi bày trọn vẹn tâm tủy của chư Phật. Cái đại nguyện do Pháp Tạng Bồ Tát trong cả năm kiếp siêng gắng tìm cầu, chọn lọc [các cõi Phật thanh tịnh] thật ra chỉ là một nguyện nhằm làm cho chúng sanh chân thật phát khởi ý nguyện cầu vãng sanh Tịnh Ðộ. Vì vậy, bọn phàm phu đời Mạt chúng ta chỉ cần viên mãn nguyện này ắt liền xứng hợp Di Ðà đại nguyện, liền nhập Nhất Thừa nguyện hải, liền có cùng một thể với Di Ðà đại nguyện, nên mới bảo: “Ðầy đủ vô lượng đại nguyện”. Những gì là phương tiện, những gì là đường thẳng chóng? Chính là từ quả khởi tu thẳng đến cứu cánh. Pháp môn Tịnh Ðộ thật chẳng thể nghĩ bàn!
Ảnh minh họa: "Này Xá-lợi-phất, chúng sanh nghe được điều này, phải nên phát nguyện, nguyện sanh về nước kia"
(Kinh A Di Đà bằng tranh)
Đoạn đầu: Câu “ký nhiếp thọ dĩ” (đã nhiếp thọ xong) là câu để nối kết đoạn kinh trước với đoạn kinh này. Khi đó, Pháp Tạng Bồ Tát lại đến chỗ đức Thế Gian Tự Tại Vương Phật. “Khể thủ” là cúi đầu sát đất. “Lễ túc” là dùng đầu mình áp sát chân Phật. Kế đó, nhiễu Phật cũng là cách kính lễ.
Trải qua 5 kiếp tư duy, tu tập, nhiếp thủ, Tỳ Kheo Pháp Tạng đã thành tựu viên mãn hạnh nguyện trang nghiêm thanh tịnh cõi nước của mình, bèn đến trước Đức Phật, dập đầu kính lễ, nhiễu Phật ba vòng, rồi đứng yên chấp tay cung kính trước Phật bạch rằng: "Bạch Thế Tôn, con đã thành tựu hạnh thanh tịnh trang nghiêm cõi Phật". Ngài chuẩn bị phát ra 48 Đại Nguyện trước Thế Tự Tại Vương Như Lai. Đây chính là thời khắc vô cùng ý nghĩa và quan trọng với tất cả chúng sanh Thập phương đời sau vậy.
"Phật khen:
- Lành thay! Nay chính là đúng lúc, ông nên thuật đủ, khiến cho đại chúng hoan hỷ, cũng khiến cho đại chúng nghe pháp ấy xong được đại thiện lợi, có thể tu tập, nhiếp thọ cõi Phật, đầy đủ vô lượng đại nguyện."
Với một mức độ chuẩn bị, thời gian, công sức tu tập nhiếp thủ, cùng định lực như thế, chắc chắc Đức Phật rất mong chờ một Đại Thệ Nguyện rộng sâu, trọn khắp, cứu cánh viên mãn mà Tỳ Kheo Pháp Tạng sắp đọc ra, nhằm cho tất cả hàm linh về sau cùng được đại lợi ích, "đầy đủ vô lượng đại nguyện".
“Mãn túc vô lượng đại nguyện” (Đầy đủ vô lượng đại nguyện) là viên mãn hết thảy chí nguyện. Sách Vãng Sanh Luận Chú viết: “Viên mãn một nguyện vãng sanh Tịnh Ðộ chính là viên mãn hết thảy các chí nguyện, nên bảo là: Mãn túc vô lượng đại nguyện”.
Rõ ràng, Đức Phật ngài đã nhìn thấy trước được như vậy rồi.
Nói chung, ý nghĩa Kinh văn ở đoạn này các Ngài đã chú giải đầy đủ, chúng ta cùng đọc và học tập. Ở đây chúng ta chỉ luận bàn một chút chỗ “Viên mãn một nguyện vãng sanh Tịnh Ðộ chính là viên mãn hết thảy các chí nguyện".
Điều này thì chắc là tất cả chúng ta đều đã hình dung. Vãng sanh Tịnh Độ, chắc chắn được liễu thoát sanh tử, lìa khổ được vui, tương lai chắc chắn sẽ thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác và chắc chắn sẽ cứu độ vô lượng vô biên chúng sanh. Như thế thì còn gì viên mãn cho bằng được. Với những pháp thế gian thì không cần bàn, với cả những pháp xuất thế cũng vậy. Rốt cuộc rồi cũng quy kết về Tứ Hoằng Thệ Nguyện thôi, "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ... Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành". Rốt ráo giải thoát, cứu cánh viên mãn.
Ở đây, chúng ta tiếp tục luận bàn một chút về vấn đề 'muôn thuở', đó là làm sao để thành tựu được hạnh nguyện "vãng sanh Tịnh Độ" đây? Tỳ Kheo Pháp Tạng ngài thành tựu hạnh nguyện Đại Nguyện rộng sâu kia, còn phàm phu chúng ta chỉ cần đời này thành tựu vãng sanh Tịnh Độ, như thế là viên mãn, rốt ráo rồi.
Trong Bổn Nguyện của Phật có tới 4 Đại Nguyện tiếp dẫn vãng sanh. Chúng sanh có thể tùy nghi phương tiện mà hành trì, miễn sao hành đúng theo lời Nguyện ấy thì ắt được Phật tiếp dẫn về. Trong các Nguyện này thì Nguyện "Mười niệm ắt vãng sanh" chính là trung tâm, bao hàm đầy đủ tất cả các Nguyện còn lại. Chúng ta có thể ví các Nguyện kia như là vài chi, nhánh [của cái cây], còn Đại nguyện 18 chính là cả cái cây vậy. Tức là những gì các Nguyện kia có thì Nguyện 18 cũng có, nhưng không phải ngược lại, những gì Nguyện 18 có thì những Nguyện kia có thể không có. Cho nên mới được gọi là Hồng tâm. Chúng sanh đời Mạt, mà cụ thể đang nói đây là hành giả Tịnh Độ chúng ta đây, đa phần cần những gì? Ấy chính là cần những cái mà 'không có' vừa nói đó. Tức là cần những điều mà Đại nguyện 18 có sở hữu nhưng những Đại nguyện tiếp dẫn còn lại không có nói. Nói một cách rộng hơn, [đa phần] Thập phương chúng sanh cần là cần những điều này, nương tựa vào những giáo pháp này để hành trì ngõ hầu được giải thoát. Và hệ quả tất yếu là, Thập phương Chư Phật đồng hiện tướng lưỡi rộng dài "thuyết thành thật ngôn, khen ngợi công đức bất khả từ nghì của Phật Vô Lượng Thọ", cũng chính là từ những điểm trọng yếu này. Vì sao vậy? Đơn giản là vì chúng là những giáo điển cứu vớt chúng sanh rộng sâu, viên mãn rốt ráo nhất, không có gì hơn được nữa.
Vậy những điểm trọng yếu vừa nêu đó là gì? Với hành giả Tịnh Độ tu tập đã có chút thời gian, Kinh điển biết được ít nhiều thì chắc là đều biết rõ những nghĩa lý Kinh giáo này là gì rồi. Ở đây chúng ta không cần nhắc lại. Tuy nhiên, ở đây chỉ muốn nhấn mạnh ở chỗ 'người thật việc thật', đó là tại sao cùng tu Tịnh Độ, cùng niệm Phật cầu vãng sanh, nhưng tại sao có người thì thành tựu, được Phật rước, có người thì không, cả đời hành trì nhưng cuối cùng không được Phật rước, đi đâu về đâu cũng không biết nữa? Đây là việc rõ ràng như ban ngày, ai cũng thấy cũng biết cả. Thậm chí số thành tựu thì ít, số chẳng được thành tựu lại đông hơn nhiều. Vì sao nên nổi như vậy? Đừng nói là họ không tinh tấn dũng mãnh nhé, hay thời gian tu tập dài ngắn chưa đủ gì đó. Không có đâu, nhiều người họ cũng cả đời hành trì, dũng mãnh tinh tấn, chẳng biếng trễ chút nào, nguyện sanh tha thiết. Dạ vâng, vấn đề chính là ở chỗ vừa nói đến bên trên đó, đó chính là điểm khác biệt từ Kinh giáo được đem đi áp dụng vào tu tập thực tế. Khác biệt này bao lớn? Một đằng được Phật rước đi vãng sanh để được làm Phật tương lai còn một đằng đi đâu về đâu đây hỡi? Cùng là hành trì tu tập như nhau cả, chỉ khác là chọn giáo pháp nào mà thôi, thành ra sự khác biệt là như thế đó. Huệ mạng mỗi người, mỗi người có quyền chọn lựa mà, đúng không?!
Những nghĩa lý kinh văn khác chúng ta cùng đọc và học tập theo chú giải của các Ngài.
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ
Phẩm 5. Chí Tâm Tinh Tấn
Ngài Hoàng Niệm Tổ