Phật ngữ A Nan:
- Bỉ Cực Lạc giới vô lượng công đức, cụ túc trang nghiêm. Vĩnh vô chúng khổ, chư nạn, ác thú, ma não chi danh. Diệc vô tứ thời hàn, thử, vũ, minh chi dị. Phục vô đại tiểu giang, hải, khâu lăng, khanh khảm, kinh, cức, sa, lịch, Thiết Vy, Tu Di, thổ thạch đẳng sơn. Duy dĩ tự nhiên thất bảo, hoàng kim vi địa, khoan quảng bình chánh, bất khả hạn cực, vi diệu kỳ lệ, thanh tịnh trang nghiêm, siêu du thập phương nhất thiết thế giới.
Phật bảo A Nan:
- Cõi Cực Lạc thế giới công đức vô lượng, trang nghiêm đầy đủ, vĩnh viễn không có các tên gọi các khổ, các nạn, đường ác, ma làm não loạn; cũng không có bốn mùa, nóng, lạnh, mưa, tối tăm sai khác. Lại cũng chẳng có sông, biển lớn nhỏ, gò, đống, hầm, hố, gai góc, cát, sỏi, Thiết Vy, Tu Di, các hòn núi đá hay núi đất, chỉ tự nhiên là bảy báu, vàng ròng làm đất; bằng phẳng, rộng rãi, bao la chẳng thể hạn lượng, vi diệu, lạ lùng, đẹp đẽ, thanh tịnh trang nghiêm, vượt trỗi hết thảy các thế giới trong mười phương.
(Tiếp theo)
“Ác thú” (đường ác): Chữ “thú” (趣) có nghĩa là chỗ chúng sanh hướng đến. Có nhân ắt có quả, từ nhân hướng đến quả nên gọi là “thú”. Luận Câu Xá, quyển tám chép: “Thú nghĩa là đi đến”. Sách Pháp Hoa Văn Cú Ký cũng giảng: “Từ một chỗ này đến một chỗ khác nên gọi là thú”. Ác thú chính là ác đạo, tức là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh; đó là ba ác đạo.
Kinh A Di Ðà dạy: “Bỉ Phật quốc độ vô tam ác đạo. Xá Lợi Phất! Kỳ Phật quốc độ thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thật!” (Cõi nước Phật ấy không có ba ác đạo. Này Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy còn không có danh từ ác đạo huống là thật có). Ðây chính là do nguyện thứ nhất “nước không có ác đạo” thành tựu.
“Ma não”: “Ma” (魔) là cách gọi tắt chữ Phạn “Ma La” (Māra), dịch nghĩa là Năng Ðoạt Mạng, Chướng Ngại, Nhiễu Loạn, Phá Hoại v.v… Sách Nghĩa Lâm Chương, quyển sáu giảng: “Ma, tiếng Phạn là Ma La, Hán dịch là Nhiễu Loạn, Chướng Ngại, Phá Hoại. Do chúng nhiễu loạn thân tâm, chướng ngại thiện pháp, phá hoại sự tốt đẹp bậc nhất nên gọi là Ma La. Cõi này (Trung Hoa) gọi tắt là Ma”. Sách Huệ Lâm Âm Nghĩa, quyển mười hai cũng giảng: “Ma La, Hán dịch là Lực, tức là tên khác của ma vương Ba Tuần trong cõi Tha Hóa Tự Tại. Loài quỷ thần này có đại thần lực có thể gây chướng nạn cho những người tu pháp xuất thế nên gọi là Ma La”.
Sách Trí Ðộ Luận lại bảo có bốn loại ma:
- Một là Phiền Não Ma: Các phiền não như tham, sân, si… não hại thân tâm nên gọi là Ma.
- Hai là Ấm Ma, tức Ngũ Ấm: Sắc, Thọ… sanh ra các thứ khổ não nên gọi là Ma.
- Ba là Tử Ma: Cái chết đoạt mất mạng căn của con người nên gọi là Ma.
- Bốn là Tha Hóa Tự Tại Thiên Tử Ma: Ma vương này hay hại sự lành của người khác nên gọi là Ma.
Trong bốn loại này, loại thứ tư mới chính là ma thật sự, còn ba loại ma kia do gây chướng tương tự như ma nên cũng gọi là Ma.
“Ma não” (魔惱) tức là ma khiến cho thân tâm bị não hại. Hơn nữa, phiền não cũng là ma. Thế giới Cực Lạc vĩnh viễn chẳng có ma làm não loạn là do bởi toàn thể cõi Cực Lạc là một thanh tịnh cú, lại được trang nghiêm bởi “trụ Chân Thật Huệ”, khai thị bởi Chân Thật Tế nên có thể ban cho “cái lợi chân thật”. Trong cái chân thật một pháp thanh tịnh ấy còn chẳng có cả danh từ “ma não loạn” huống hồ là thật sự có như kinh Pháp Hoa đã dạy: “Phật ngôn: - Nhược hữu nữ nhân văn thị kinh điển, như thuyết tu hành, ư thử mạng chung, tức vãng An Lạc thế giới, A Di Đà Phật, đại Bồ Tát chúng, vi nhiễu trụ xứ. Sanh liên hoa trung, bảo tòa chi thượng, bất phục vị tham dục sở não. Diệc phục bất vị sân khuể ngu si sở não, diệc phục bất vị kiêu mạn, tật đố chư cấu sở não, đắc Bồ Tát thần thông Vô Sanh Pháp Nhẫn” (Phật bảo: - Nếu có kẻ nữ nghe kinh điển này mà tu hành đúng như lời dạy thì kẻ ấy mạng chung liền được vãng sanh An Lạc thế giới, A Di Ðà Phật và đại Bồ Tát chúng vây quanh trụ xứ, sanh trong hoa sen, ngồi trên tòa báu, chẳng còn bị tham dục não loạn, cũng chẳng còn bị nóng giận, ngu si não loạn, cũng chẳng bị kiêu căng, ghen ghét não loạn, đắc thần thông Vô Sanh Pháp Nhẫn của Bồ Tát). Ðoạn kinh trên đã chỉ rõ thế giới Cực Lạc không có các điều chướng não.
Vả lại, trong uế độ, chúng sanh do niệm Phật còn trừ được ma sự, huống hồ là khi đã sanh về cõi kia. Kinh Thập Vãng Sanh chép: “Phật ngôn: - Nhược hữu chúng sanh, niệm A Di Đà Phật, nguyện vãng sanh giả, bỉ Phật tức di nhị thập ngũ Bồ Tát, ủng hộ hành giả. Nhược hành, nhược tọa, nhược trụ, nhược ngọa, nhược trú, nhược dạ, nhất thiết thời, nhất thiết xứ, bất linh ác quỷ, ác thần đắc kỳ tiện dã” (Phật nói: - Nếu có chúng sanh niệm A Di Ðà Phật nguyện vãng sanh thì đức Phật ấy liền sai hai mươi lăm vị Bồ Tát ủng hộ hành giả dù đi hay ngồi, dù đứng hay nằm, dẫu ngày hay đêm, trong hết thảy thời, hết thảy chỗ, chẳng để cho ác quỷ, ác thần có cơ hội làm hại).
Hơn nữa, tu hành trong cõi này nếu lỡ bị ma khuấy vẫn có thể dùng niệm Phật để đối trị được (xem phần hai cuốn chín sách Ma Ha Chỉ Quán).
Sách Tịnh Ðộ Tu Chứng Nghi cũng nói: “Pháp lý quán của mười thừa có thể khiến cho chín cảnh ma sự phát khởi vì hành giả dùng pháp sanh tử mê ám của Ngũ Ấm để làm quán cảnh vậy. Còn pháp sự quán của Tịnh Ðộ dùng ngay cái quả thanh tịnh công đức của Phật Di Ðà làm cảnh nên vĩnh viễn không có ma sự. Lúc tâm không tà niệm thì thánh cảnh hiện tiền, quang minh chiếu sáng”.
Di Ðà quả đức vô lượng thanh tịnh nên trong cõi Ngài vĩnh viễn chẳng có ma sự!
“Diệc vô tứ thời hàn, thử, vũ minh chi dị” (Cũng không có bốn mùa, nóng lạnh, mưa, tối tăm sai khác): Tứ thời là Xuân, Hạ, Thu, Ðông. “Hàn thử” (寒曙) chỉ tiết trời cực nóng, cực lạnh, “vũ minh” (雨冥) chỉ mưa gió đen nghịt. So với mười bảy thứ công đức trang nghiêm thành tựu của cõi Cực Lạc, câu này thể hiện công đức thứ ba, tức Trang Nghiêm Tánh Công Ðức Thành Tựu.
Nay cõi Cực Lạc, xét về trời, chẳng có bốn mùa v.v… xét về đất, cũng chẳng có các tướng sông, biển, núi, hang, chỉ là một cõi đất mênh mông, bát ngát, phẳng phiu, thuần sắc vàng ròng. Người cõi ấy lại như sách Luận Chú bảo: “Những kẻ vãng sanh không ai chẳng được tịnh sắc, không ai chẳng được tịnh tâm, rốt ráo đều đắc thanh tịnh bình đẳng vô vi Pháp Thân”. Câu này chứa đựng mật ý: Tánh bình đẳng như đất, biển pháp một vị. Ðó là Trang Nghiêm Tánh Công Ðức Thành Tựu vậy.
“Phục vô đại tiểu giang, hải, khâu lăng, khanh khảm, kinh, cức, sa, lịch, Thiết Vy, Tu Di, thổ thạch đẳng sơn. Duy dĩ tự nhiên thất bảo, hoàng kim vi địa” (Lại chẳng có sông, biển lớn nhỏ, gò đống, hầm hố, gai góc, cát, sỏi, Thiết Vy, Tu Di, các hòn núi đá, núi đất v.v... Chỉ tự nhiên là bảy báu, vàng ròng làm đất): Không có biển, sông, Tu Di… là hiển thị tánh công đức thành tựu.
“Tu Di” (Sumeru) dịch là núi Diệu Cao, là trung tâm của một tiểu thế giới. Núi ấy do bốn báu hợp thành, nằm giữa đại hải, cao khỏi mặt nước ba trăm ba mươi sáu vạn dặm. Mặt ngoài có chín ngọn núi, tám cái biển. Phía ngoại vi của núi Tu Di gọi là “Thiết Vy sơn” (Cakravāda). Ngay chính giữa đảnh núi Tu Di là chỗ ở của Ðế Thích Thiên, ba mươi hai vị trời khác ở khắp bốn mặt núi. Trời Tứ Thiên Vương ở lưng chừng núi. Bốn đại châu như Nam Thiệm Bộ châu v.v… ở quanh bốn mặt biển (Mặt trời xoay quanh núi Tu Di. Trước đây có người cho rằng núi Tu Di nằm ngay trên địa cầu thì thật là lầm lẫn lớn. Xét ra, ít nhất, Tu Di cũng là một thiên thể to bằng mặt trời. Nam Thiệm Bộ Châu chính là địa cầu. Kinh dùng chữ “thủy” để chỉ những vật thể lưu chuyển, “hải” tức là chỗ tích tụ các vật thể lưu chuyển ấy, chứ nào phải là biển cả như thế gian thường hiểu).
Sách Hội Sớ giảng chữ “tự nhiên thất bảo” như sau: “Cõi uế Sa Bà do tạp nghiệp cảm thành nên dùng bùn, đất, sỏi, sạn làm chất đất, còn cõi kia chuyên do tịnh tâm vô lậu biến hiện nên dùng bảy báu làm Thể. Cõi ấy do bố thí, trì giới cảm thành, tánh chẳng tạo tác nên gọi là tự nhiên”. Ý chỉ của câu “tánh chẳng tạo tác nên gọi là tự nhiên” của đoạn văn trên thật tương đồng với lời nhận định của Luận Chú: “Tánh công đức thành tựu” và “tánh có nghĩa là tất nhiên”. Tánh đức tự nhiên do chẳng có cách nào tạo tác được, đấy là ý nghĩa chữ “tự nhiên”. Có công tu đức nên tánh đức tự hiển hiện một cách tự nhiên như vậy; đấy là ý nghĩa chữ “tự nhiên” trong kinh.
Về chữ “thất bảo”, các bản dịch và các kinh, luận nói đôi chút khác biệt.
Trong kinh này, chữ “thất bảo” chỉ “vàng, bạc, lưu ly, thủy tinh, hổ phách, mỹ ngọc, mã não” (chữ “mỹ ngọc” lấy từ bản Ðường dịch, chữ “thủy tinh” lấy từ hai bản dịch Hán và Ngô).
Kinh A Di Ðà bảo bảy báu là “vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não”. Trí Ðộ Luận lại bảo là “vàng, bạc, tỳ-lưu-ly (lapis lazuli), pha lê, xa cừ, mã não, xích chân châu” (loại châu này cực quý, khác hẳn san hô). Kinh Bát Nhã lại gộp cả hổ phách vào trong bảy báu, bản Ngụy dịch cũng kể tên hổ phách. Nói tổng quát là các thứ báu trong cõi Cực Lạc đều vi diệu, đẹp đẽ lạ lùng, vượt xa các báu trong thế gian, chẳng qua là mượn tạm tên gọi các vật báu trong cõi trần này để dễ mô tả đó thôi.
Kinh Tiểu Bổn ghi “hoàng kim vi địa” (vàng ròng làm đất), kinh này chép: “Tự nhiên thất bảo, hoàng kim vi địa” (Tự nhiên là bảy báu, vàng ròng làm đất), ý nói: Bảy báu như: vàng ròng… tánh đức tự nhiên hợp thành mặt đất. Bản Ngụy dịch chép: “Kỳ Phật quốc độ, tự nhiên thất bảo, kim, ngân, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não, hợp thành vi địa” ([Trong] cõi đức Phật ấy, tự nhiên bảy báu: vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não hợp thành đất). Quán Kinh cũng chép: “Lưu ly địa thượng, dĩ hoàng kim thằng, tạp xí gián thố, dĩ thất bảo giới phân tế phân minh. Nhất nhất bảo trung, hữu ngũ bách sắc quang, kỳ quang như hoa, hựu tự tinh nguyệt, huyền xử hư không” (Trên đất lưu ly dùng dây vàng ròng kết lẫn với bảy báu để phân chia thành từng khu vực rành rẽ. Mỗi một thứ báu có năm trăm sắc quang. Quang minh ấy như đóa hoa, lại có quang minh tương tự như tinh tú, mặt trăng, treo lơ lửng trên hư không).
Mặt đất cõi nước Cực Lạc chẳng có đất, đá, chỉ thuần trang nghiêm bằng các thứ báu mầu nhiệm tánh đức như Vãng Sanh Luận nói: “Ðầy đủ tánh trân bảo, đầy đủ trang nghiêm mầu nhiệm”. Chữ “tánh trân bảo” chỉ những thứ quý báu sẵn có trong tự tánh. Ðấy chính là môn “các thứ sự trang nghiêm công đức thành tựu” được nói trong Vãng Sanh Luận.
“Khoan quảng bình chánh bất khả hạn cực” (Bằng phẳng, rộng rãi bao la chẳng thể hạn lượng): Tâm tịnh cõi nước tịnh, tâm bình cõi nước bình. Do tâm địa bình đẳng nên đại địa bằng phẳng. Câu kệ sau đây trong Vãng Sanh Luận: “Cứu cánh như hư không, quảng đại vô biên tế” (Rốt ráo như hư không, rộng lớn không ngằn mé) đã diễn tả ý “khoan quảng bình chánh bất khả hạn cực” (rộng rãi bao la chẳng thể hạn lượng) nói trong kinh này. Sách Luận Chú giảng: “Như hư không là ý nói người vãng sanh tới cõi ấy tuy đông, nhưng vẫn như không có, nghĩa là: Thập phương chúng sanh vãng sanh, dù đã sanh, hoặc đang sanh, hay sẽ sanh, tuy vô lượng vô biên nhưng rốt ráo luôn như hư không. ‘Quảng đại vô biên tế’ là trọn chẳng có lúc kết cuộc”. Ðấy chính là môn Trang Nghiêm Lượng Công Ðức Thành Tựu được nói trong Vãng Sanh Luận [tức là] số lượng các thứ trang nghiêm chẳng có chừng hạn vậy.
“Vi diệu kỳ lệ, thanh tịnh trang nghiêm” (Vi diệu đẹp đẽ, lạ lùng, thanh tịnh trang nghiêm): “Diệu” (妙) là đẹp đẽ một cách thù thắng khó nghĩ tưởng nổi. “Vi diệu” nghĩa là đẹp đẽ nhất trong các thứ diệu, khó nghĩ tưởng nhất trong các thứ khó nghĩ tưởng nổi. “Lệ” (麗) là tuyệt đẹp, đẹp rực rỡ. “Kỳ” (奇) là lạ thường, là chẳng tầm thường, đặc biệt, phi thường. Như vậy, “kỳ lệ” nghĩa là đẹp đẽ, xinh khéo, rực rỡ một cách lạ lùng, đặc biệt, vượt trỗi, độc đáo. Chẳng hạn như, mặt đất cõi Cực Lạc do bảy báu hợp thành, trong mỗi thứ báu lại có năm trăm quang sắc. Quang minh ấy có hình như đóa hoa hoặc như vầng trăng nên bảo là “kỳ lệ”.
“Thanh tịnh trang nghiêm”: “Thanh tịnh” là vĩnh viễn thoát khỏi ô nhiễm, “trang nghiêm” là đầy đủ vạn đức. Sách Luận Chú nói: “Từ nghiệp trí huệ thanh tịnh của Bồ Tát phát khởi để trang nghiêm Phật sự, nương pháp tánh nhập tướng thanh tịnh”. Sách còn nói: “Tánh nghĩa là gốc. Cái năng sanh (tức là tánh) đã tịnh thì cái sở sanh (tức là cõi nước) lại chẳng tịnh hay sao?”. Ðó là do cõi Cực Lạc được trang nghiêm thành tựu bằng bổn tánh thanh tịnh vậy.
Trong phẩm năm Chí Tâm Tinh Tấn của bản kinh này, tỳ-kheo Pháp Tạng từng nguyện khi thành Phật thì trí huệ, quang minh, cõi nước, danh hiệu của Ngài đều vang dội mười phương, Ngài còn bảo: “Ngã lập thị nguyện, đô thắng vô số chư Phật quốc giả” (Tôi lập nguyện này đều vượt trội vô số các cõi nước Phật). Do Pháp Tạng Bồ Tát khi tu nhân đã phát nguyện vượt trội vô số các cõi Phật nên đến khi Ngài thành Phật, bổn nguyện ấy liền tự được thành tựu như thế. Phẩm mười hai Quang Minh Biến Chiếu có chép: “Bổn kỳ tiền thế cầu đạo, sở nguyện công đức đại tiểu bất đồng. Chí tác Phật thời, các tự đắc chi. Tự tại sở tác, bất vi dự kế” (Vốn do trong đời trước cầu đạo, đã phát nguyện công đức có lớn nhỏ sai khác nên đến khi thành Phật, mỗi người tự đạt được [quả báo sai khác], tự tại thành tựu chẳng thể tính trước nổi). Vì vậy, cõi nước Cực Lạc trang nghiêm đầy đủ “siêu du thập phương nhất thiết thế giới” (vượt trội hết thảy cõi nước trong mười phương).
"Duy dĩ tự nhiên thất bảo, hoàng kim vi địa" - Ảnh minh họa
Cõi bụi trần này con người ta cả đời lam lũ, dành dụm, [cất dấu] từng mẫu bé tí, cõi kia thì "vi địa" (dùng làm đất).
A Di Đà Phật kiến lập cõi Cực Lạc “siêu du thập phương nhất thiết thế giới” (vượt trội hết thảy cõi nước trong mười phương). Như thế, ắt Ngài cũng có phương tiện thiện xảo vượt trỗi, thù thắng [tương tự như thế] để cứu độ chúng sanh thập phương trở về. Và chúng ta đều biết đó chính là gì! Dạ vâng! Tin tưởng, ưa thích [mà niệm] một cách "chí tâm", thành thật ["hoan hỉ tin ưa, bất sanh nghi hoặc"], nguyện thiết sanh về quốc độ của Ngài, ắt hết thảy chúng ta [ngay đời này] đều nhận được cái quả “siêu du thập phương nhất thiết thế giới” [sanh về Cực Lạc là vượt trội hơn hết cõi nước trong thập phương]. Từ đây vĩnh viễn lìa khổ được vui, vĩnh ly sanh tử, tu trọn thành Phật đạo, tùy nguyện độ sanh khắp Pháp Giới.
Trích lục Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ
Phẩm 11. Quốc Giới Nghiêm Tịnh
Ngài Hoàng Niệm Tổ