Cần Kiệm Nhân Từ, Dốc Lòng Tu Trì Tịnh Nghiệp

NPSTD7

 

Cần Kiệm Nhân Từ, Dốc Lòng Tu Trì Tịnh Nghiệp

Bày tỏ ý nghĩa của lời tựa chúc thọ ông bà Cừu Trác Đình

"Do đào luyện mà thành ra sai khác"

Con người sống trong vòng trời đất hình vóc nhỏ nhoi thay! Sao lại có thể sánh cùng trời đất xưng là Tam Tài? Ấy là do con người đồng một tâm này, tâm cùng một lý này, ai nấy có thể là Nghiêu - Thuấn, ai nấy đều có thể làm Phật. Do có đủ công năng, đức dụng tán trợ quyền sanh trưởng, dưỡng dục của trời đất, giữ gìn giềng mối càn khôn, nên mới mang danh xưng tốt lành ấy. Nếu kẻ nào chẳng tự gắng sức đào luyện, cam bề phàm ngu, sống làm thịt đi thây chạy, chết mục nát cùng cỏ cây, sống có hại cho xã hội, quốc gia, chết chịu khổ trong tam đồ, ác đạo, thì chính là vì không cẩn thận trong hành vi mà nên nỗi, chứ chẳng phải vì thiên chân Phật tánh sẵn đủ có gì sai khác! Vì vậy, Khổng Tử nói: “Về tánh chất thì gần giống như nhau, nhưng do đào luyện mà thành ra sai khác”. Như nói đến “tán trợ quyền sanh trưởng, dưỡng dục của trời đất, gìn giữ giềng mối càn khôn” nào phải chỉ là nói về những ai có địa vị! Dẫu là thất phu, thất phụ đi nữa, ai nấy đều có thể dốc sức thực hiện. Nếu có thể chánh tâm thành ý, tự tu sửa cái thân để làm sáng tỏ Minh Đức, lòng thành bên trong thấu tỏ ra ngoài, tất nhiên người trong nhà, láng giềng, làng xóm, thân thích, bầu bạn thảy đều thấy được, cảm nhận được, ngấm ngầm được cảm hóa, thay đổi mà không hay không biết. Vì thế, khi trong làng có một vị thiện sĩ thì làng ấy càng thêm thuần hòa, nghiêm cẩn, yên tịnh, như Trần Thật Uyển đời Hán giáo hóa chàng quân tử trên kèo nhà khiến đạo tặc trong làng ấy tuyệt tích, người cô có đạo nghĩa nước Lỗ muốn bảo vệ đứa con nối dõi của anh mình khiến cho quân địch nước Tề lập tức lui binh. Đấy chính là đầu mối để thất phu, thất phụ tán trợ quyền sanh trưởng, dưỡng dục của trời đất, giữ gìn giềng mối vậy.

 

Dân đen [cũng phải] có trách nhiệm với thiên hạ

Mạnh Tử nói: “Nghèo cùng thì riêng thân mình thiện, hiển đạt thì làm cho thiên hạ cùng thiện”, đấy chính là hướng theo đa số mà luận vậy. Trong cõi đời ngày nay, thế đạo nhân tâm đều đã suy vi đến cùng cực, chỉ cầu tự tư tự lợi, gạt bỏ đạo đức nhân nghĩa không ngó ngàng đến gần như hết thuốc chữa! Nhưng thiên hạ chẳng yên, thất phu có trách nhiệm. Nếu như ai nấy đều đứng lên gách vác trách nhiệm này, ai nấy đều giữ phận sống yên, biết nhân hiểu quả, hiếu cha mẹ, kính anh, đôn đốc tông tộc, nghiêm túc dạy dỗ con cái khiến cho chúng trở thành người lương thiện thì chỉ trong mười mấy năm, trong đời ai cũng là hiền nhân. Người hiền tạo ích lợi cho nhau, ắt sẽ cảm được thiên hòa, thiên tai, nhân họa nào còn có nữa! Do vậy, biết rằng xiển minh nhân quả, khéo dạy con cái chính là căn bản để thiên hạ thái bình.

 

Hiếu thuận cha mẹ, em kính trọng anh...
Như vợ chồng ông Cừu Trác Đình ai nấy đều biết là người có nhiệt tâm thạnh đức, dùng tấm lòng vô tư, chí thành, hiếu thuận cha mẹ, kính trọng anh, nuôi nấng các cháu, châu cấp kẻ bần cùng, chấn hưng trường học, tin tưởng sâu xa vào Phật pháp và nhân quả, tế độ u hồn, cứu giúp sanh mạng, là gương sáng cho xóm làng, làm bậc mô phạm cho đồng nhân, khiến cho con cái, dâu, cháu đều hiền - hiếu, gia đạo hưng vượng, con cháu đông đầy. Nhưng không ai biết đức ấy, tâm ấy vốn do từ vô lượng kiếp đến nay phụng hành lời dạy “không làm các điều ác, vâng làm các điều lành, đối xử với mọi người bằng lòng nhân bình đẳng, tự lợi lợi tha” của đức Phật, lại thêm từ khi sanh ra đã được hiền phụ, hiền mẫu un đúc, giáo hóa, dưỡng dục mà thành ra như vậy.

 

Đại thể của việc chúc thọ [vãng sanh Tây Phương chứng vô lượng thọ]
Tiên sinh và phu nhân sắp đến bảy mươi, đồng nhân muốn chúc hai cụ sống lâu trăm tuổi, bèn kính cẩn chép lại những hành trạng hai cụ để góp phần chúc thọ, lại xin Bất Huệ tùy hỷ tán trợ. Trộm nghĩ: Trong lời tựa đã nêu bày đầy đủ đức của tiên sinh và phu nhân. Nếu chỉ viết xuông những câu văn bóng bảy để tán tụng thì chẳng những Bất Huệ tôi không thể làm được mà cũng không nên làm như thế. Do vậy, bèn suy xét nơi cái gốc để viết ra những lời lẽ nhằm phát huy những nghĩa lý còn bị ẩn kín. Phải biết: Tuổi thọ của con người vốn vô thủy vô chung. Do Chân Như Diệu Tánh bị phiền não Hoặc nghiệp che lấp mà tùy nghiệp thăng trầm trong lục đạo luân hồi, nên tuổi thọ rút ngắn chẳng thể kham diễn tả được nổi. Đức Như Lai thương xót bèn nói pháp đoạn Hoặc chứng Chân để họ hoàn lại cái gốc, trở về nguồn, siêu phàm nhập thánh. Trong ấy, pháp hạ thủ dễ thành công cao thì chỉ có tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương là bậc nhất. Con cụ Cừu là Tố Doanh lập An Dưỡng Đường để làm chỗ cho song thân tu Tịnh, thật đã hiểu được đại thể của việc chúc thọ. Đợi đến khi [song thân] trăm tuổi, vãng sanh Tây Phương chứng vô lượng thọ thì mới là thật nghĩa rốt ráo của người con hiếu tôn kính cha mẹ, mới đáp được lòng thành ngưỡng mộ của đồng nhân ca tụng đức chúc thọ [cha mẹ] (Tố Doanh hiệu là Bội Tịnh).

 

Nêu bày nghĩa lý ẩn kín về hành trạng của Lâm Phu Nhân (trích lục)

Từ trẻ đến già không hề phế bỏ, suốt đời khăng khắng tu trì

Lâm phu nhân là mẹ đẻ của ông Tôn Khánh Trạch, xưa đã trồng cội đức, bẩm tánh hiền thục, hiếu thảo cha mẹ, tôn kính chồng, dạy con, cai quản việc nhà, châu cấp kẻ nghèo cùng, túng thiếu, cứu giúp sanh mạng, đều đáng làm bậc thầy khuôn mẫu cho nữ giới. Bà lại còn dốc lòng tin tưởng Phật pháp, tu trì Tịnh nghiệp, từ trẻ đến già không hề phế bỏ. Huống chi đã mang thân nữ khó thể đi xa tham học với bậc cao nhân, lại sống ở Ngọc Điền, rất ít bậc thượng sĩ hoằng pháp, mà vẫn suốt đời khăng khắng tu trì thì chính là do nhiều kiếp huân tu tạo thành vậy.

 

“Lợi người thật ra là lợi mình, hại người khổ hơn hại mình rất nhiều"
Xét khi xưa, lúc phu nhân về với ông Tôn, nghèo cùng không đủ ăn, cần cù, vất vả quá người làm công. Tuổi trung niên trở đi, nhà cửa mới dần dần dư dả, có năm người con, mười mấy đứa cháu, tôi tớ rất đông. Lẽ ra nên an nhàn hưởng thụ, nhưng bà vẫn chịu thương, chịu khó như cũ, chỉ mặc áo vải thô, chẳng mặc lượt là, giặt giũ, chằm vá, chẳng nỡ bỏ đi. Thấy người khác đói rét khác nào chính thân mình đang khổ, ắt phải thí tiền cho cơm thì tâm mới yên. Có ai đến cầu xin bèn vui vẻ cho ngay. Đối với côn trùng, kiến bọ, đều răn [người nhà] chớ gây tổn thương; đối với rắn, rết, độc vật cũng dạy tìm cách đuổi đi, trọn chẳng chịu gây thương tổn cho chúng. Ấy là vì muốn cho con cháu đời đời giữ đạo 
cần kiệm nhân từ, lấy chính thân mình làm gương, ngõ hầu con cháu hành theo. Bình thời, cụ hay đem chuyện nhân quả báo ứng răn dạy con cháu, thường bảo: “Lợi người thật ra là lợi mình, hại người khổ hơn hại mình rất nhiều. Phàm suy nghĩ, xử sự, nói năng đều phải quy vào phương diện từ thiện mới nên. Nếu các ngươi làm được như thế thì mới khỏi gây thẹn cho người sanh ra mình. Nếu không, dù phú quý tột bậc vẫn là đại oan gia ô nhục tổ tông”. Do vậy, con cháu cụ đa số đều thuần hậu, kính cẩn, chẳng nhiễm thói tục hiện thời.

 

[Dự biết] chuẩn bị hậu sự

Chuyện lạ nhất là vào mùa Đông năm ngoái, khi chiến tranh nổ ra, Khánh Trạch đưa mẹ đi xa lánh nạn tại nhà họ hàng. Trong lúc ra đi, [mọi người] tâm lo lắng sợ sệt, phu nhân sai đem cái rương đựng quần áo cũ theo, nhưng chẳng nói rõ duyên do. Đến tháng Chạp cụ mất, dùng ngay quần áo ấy để khâm liệm. Tuy nói là cụ tuổi đã tám mươi tám, chẳng thể không dự đoán được, nhưng tâm địa cụ an tường, chẳng bị ngoại cảnh nhiễu loạn, từ chỗ này ta có thể thấy được. Trong lúc phu nhân lâm chung, Khánh Trạch đang đốc suất người nhà đồng thanh niệm Phật, chợt như phát cuồng, xé rách giấy dán cửa sổ. Ngay khi ấy, có hai con bướm to như bàn tay theo cửa sổ chui vào, sắc vàng chen lẫn những vằn đen trắng, rực rỡ phi thường, bay quanh quẩn trong nhà. Người nhà xua đuổi rốt cuộc vẫn không đuổi được. Độ hơn nửa ngày, tẫn liệm xong xuôi, khiêng [linh cữu] sang gian nhà khác, bướm cũng chấp chới bay theo quan tài. Đến khi linh cữu đã đặt yên, bướm mới bay ra khỏi nhà, hướng về Tây bay đi. Khi ấy, nhằm tiết tháng Chạp, huống hồ đất phương Bắc đang rét căm căm làm sao có bướm được? Khi đó, người trong nhà và thân quyến bảy mươi mấy người đều kinh ngạc, cho là điềm lành chưa từng thấy nghe. Ấy chính là do thạnh đức, tịnh tâm của phu nhân chiêu cảm hòng biểu thị điềm lành lìa khỏi Sa Bà, sanh về Cực Lạc, nhưng vì người đời căn cơ hèn kém nên bèn thị hiện thành bướm, chứ nào phải là bướm thật!

 

Suốt đời phải phụng hành [đạo trọng yếu của Như lai] để rộng cảm hóa, chỉ dạy 

Khánh Trạch thuật đại lược tâm hạnh của mẹ, xin Quang phát huy ý nghĩa để khuyên đời. Ôi! Con xiển dương đức của mẹ, cố nhiên là bổn phận nên làm; nhưng xiển dương đức mẹ mà chẳng tu đức thực hành cẩn thận thì còn tệ hơn vu báng lỗi ác cho mẹ. Vì thế, Hiếu Kinh coi lập thân hành đạo, lưu danh hậu thế, khiến cha mẹ vẻ vang là tột cùng của đạo hiếu. Những vị như Khổng Tử, Mạnh Tử v.v… chưa từng thấy họ thuật bày đức của cha mẹ, mà thiên hạ hậu thế không ai chẳng tôn cha mẹ các ngài là bậc thánh phụ, thánh mẫu. Muốn phô bày đức của cha mẹ chẳng thể không biết [điều này]! Hiếu thế gian như thế có thể nói là tột bậc, nhưng chẳng có ích gì cho linh thức của cha mẹ! Nếu luận theo Phật pháp thì hễ cha mẹ còn sống bèn khuyến dụ cha mẹ nhập đạo, ngõ hầu họ bỏ mê theo ngộ, trái trần hiệp giác, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Cha mẹ đã mất thì chí thành niệm Phật, hồi hướng cho cha mẹ, cúng quải, đãi khách nhất loạt chẳng dùng đồ mặn, ngõ hầu cha mẹ chưa vãng sanh liền được vãng sanh, đã vãng sanh liền tăng cao phẩm sen. Đấy chính là đạo trọng yếu của đức Như Lai để phổ độ chúng sanh khiến họ khôi phục Phật tánh vốn có. Phận làm con muốn báo ân cha mẹ, xiển dương đức của cha mẹ thì suốt đời phải phụng hành để rộng cảm hóa, chỉ dạy. Lợi ích ấy chỉ có Phật mới biết được, chứ ngôn ngữ, văn tự chẳng thể hình dung được nổi!

 

pt11

Ảnh minh họa: "Lập An Dưỡng Đường để làm chỗ cho song thân tu Tịnh"

 

Văn Sao Tăng Quảng Chánh Biên

Đại Sư Ấn Quang

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.