Khuyên Người Làm Tiệc Đãi Khách

NPSTD7

 

Khuyên Người Làm Tiệc Đãi Khách

Người đời đều không thích thiệt thòi, mà lại ai ai cũng làm những việc đưa đến thiệt thòi. Người đời đều sợ đoạ lạc, mà đâu đâu cũng trồng nhân đoạ lạc. Có người, bị cha mẹ vô ý mắng rằng: “mày là heo chó, mày là súc vật”. Là buồn giận, hận cha mẹ sỉ nhục mình. Cái danh heo chó súc sanh, đã ghét nó e rằng không tới, chớ cái thật heo chó súc sanh, nên dứt nó chỉ sợ không sâu. Mỗi khi yến tiệc, là giết trâu dê heo gà. Sợ là sợ cái khổ đoạ trong ba đường ác, đâu phải chỉ ghét cái hư danh mà không sợ cái hoạ thật? Kinh lăng Nghiêm nói: “Do người ăn dê, dê chết làm người, người chết làm dê. Ăn các chúng sanh khác, cũng lại như vậy. Tử tử sanh sanh, qua lại ăn nhau. Câu sanh ác nghiệp, cùng đời vị lai”. Phật không nói dối, đâu dám không tin! Nên biết giết gà trả quả báo làm gà, giết dê trả quả báo làm dê, là lý tất nhiên. Than ôi! Xưa tuy cha mẹ chửi mà ta không bị, nay vì miếng ăn cho người khác mà làm (heo chó súc sanh); xưa tuy cha mẹ chửi mà ta không bị, nay vì một lúc vui cười mà làm (heo chó súc sanh). Điều đó chẳng lẽ đáng làm sao?

Vợ Chết Làm Dê, Lại Bị Chồng Giết (xem “Quảng Nhân Lục”)

Lưu Đạo Nguyên, huyện lệnh huyện Bồng Khê, trên đường giải quan, ghé ngủ lại nhà họ Tần. Mộng thấy một phụ nữ khóc kể rằng: “Tôi là vợ của họ Tần, từng đánh chết một người thiếp, sau khi chết bị đoạ làm dê. Hiện tại đang ở trong chuồng, sáng mai bị giết để đãi ông. Tôi chết cũng được, chỉ có điều tôi đang mang thai. Nếu vì tôi mà chết, thì tội tôi thêm nặng. Lưu đợi sáng mai mới nói, thì đã bị giết rồi. Cả nhà khóc lóc thảm thiết, nhét dê con vào bụng đem chôn.

Lời bàn:

Xưa ở nước Xá-vệ có một trưởng giả tà kiến, tên Đô-đề. Một hôm, đức Phật lần lượt khất thực đến nhà ông ta, thấy một con chó trắng, đang ăn vụng mâm cơm trên phản. Chó thấy Phật đến, bèn nhảy xuống sủa. Phật bảo: “Ngươi đời trước, keo kiết, không chịu bố thí, nên đoạ làm chó ở đây”. Chó nghe buồn bã, không thiết ăn uống. Đô- đề về thấy vậy, giận dữ, đi thẳng đế chỗ Phật. Phật bảo: “Chó là cha ông, ông nếu không tin, về nhà hỏi chó, chó sẽ chỉ chỗ giấu của cải cho ông”. Đô-đề thẹn sợ, trở về hỏi chó. Chó liền chạy đến dưới phản, dùng chân miệng đào đất, đào lên một kho báu lớn. Đô-đề mới tin, quy y Phật pháp tăng. Cho nên Phật nói chỉ cần động vật có sanh mạng, có thể rất nhiều đều là cha mẹ lục thân nhiều đời của ta. Con người, một đời, thì có cha mẹ lục thân một đời. Từ vô thỉ cho đến ngày nay, số lượng đầu thai bằng cát một sông Hằng, thì có cha mẹ lục thân bằng cát một sông Hằng; bằng trăm ngàn cát sông Hằng, thì có cha mẹ lục thân bằng trăm ngàn cát sông Hằng. Đâu thể giết tuỳ tiện! Giống như dê nhà họ Tần, đang khi bị giết, cả nhà chỉ nghĩ là dê. Chồng không biết là giết vợ để đãi khách, con không biết là giết mẹ cho khách vui, nô tỳ không biết là giết bà chủ để cúng. Đến khi tứ chi đều bị cắt lìa, thân thể và đầu đã phân ly, mới giác ngộ được con vật quằn quại đau đớn trên dao thớt kia chính là người yêu từng cùng giường cùng gối với mình; con vật kêu gào bi ai dưới dao gậy kia, chính là từ mẫu đã từng thương yêu mình; con vật có miệng mà không thể nói, mang đầy oán hận mà chết kia, chính là bà chủ giải quyết gia vụ, siêng năng tài giỏi của mình. Phạm sai lầm lớn, cho dù tan xương nát thịt, cũng không thể chuộc lại sanh mạng con dê. Nếu nhà họ Tần giữ giới không sát, thì đã cứu được vợ, cứu được mẹ, cứu được bà chủ. Người đời vì bạn bè thâm giao, mà đã sát hại chí thân cốt nhục của mình. Vì yến tiệc khách khứa mà sát hại người thân, phải đau lòng, thực sự dứt hẳn mới được!

Đa Sát Đãi Khách, Bạo Tử Biến Làm Heo

Niên hiệu Chánh Đức triều Minh, một cử nhân nọ ở Nam Kinh nọ, nhà giàu có, hay sát sanh, mỗi lần đãi khách thường giết ba, bốn con heo. Một đêm nọ, mộng thấy thần Thành Hoàng nói với ông: “Ngươi sát sanh nhiều vô số, trước phải biến làm heo”. Ông vẫn sát sanh như thường. Nửa năm sau, ông bạo tử. Sau khi nhập liệm, người nhà nghe trong quan tài có tiếng heo kêu, mở nắp quan tài ra xem, ông ta đã biến thành heo.

Lời bàn:

Người đời sát sanh, phần lớn là để đãi khách. Nhưng lại không nghĩ, khi họ ăn uống của ta, không ai không tự xưng là người giao tình thâm hậu với ta. Nhưng một ngày nào gặp trên đường, thì chỉ chào một tiếng mà thôi. Những người có thể giúp nhau trong hoạn nạn, ngàn người khó có được một hai. Còn khổ báo trong ba đường của mình, thì đã được ghi lại rõ ràng. Có ai thấy trước điện của Diêm vương, có người khách nào đến chia sẻ tội cho anh ta đâu? Ngay như vị cử nhân mời khách này, lúc bấy giờ hoàn toàn không tự cho rằng là hào phóng trọng nghĩa, trọng tình. Đến khi thi thể biến thành heo, tiếng dữ truyền ra ngoài, lúc ấy còn hứng thú gì nữa?

 

ss

Sát sanh làm món đãi đằng

 

Trích Vạn Thiện Tiên Tư Tập

Chu An Sĩ

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.