Quả Báo Bội Tín Vong Nghĩa

NPSTD7

 

Quả Báo Bội Tín Vong Nghĩa

Ký Văn Đông, hơn 40 tuổi, thân mặc hiếu tang, mắt đầm đìa lệ, quỳ trước ngôi mộ mới đắp của thím Trương láng giềng, lâu thật lâu vẫn chưa chịu rời xa. Người đàn ông này vóc dáng cao lớn, tướng mạo đường đường, nhưng lại có thời thơ ấu rất thảm. Nếu như không nhờ thím Trương quan tâm giúp đỡ, thì có lẽ anh đã không còn trên trần thế. Tuy không phải thân nhân nhưng thím Trương đối tốt còn hơn thân nhân. Lúc Văn Đông 5 tuổi thì cha mẹ anh trong một năm đã lần lượt qua đời.
Cha Văn Đông trước phút lâm chung, mắt đầy lệ gởi gắm con trai lại cho anh cả và chị dâu mình. Ký thác toàn bộ gia tài của ông: gồm nhà cửa khang trang, số tiền rất lớn và mớ vàng bạc trang sức (tài sản hồi môn của mẹ Văn Đông). Xem như tất cả đều giao hết cho vợ chồng người anh, cậy nhờ họ quản lý thay cho bé Văn Đông. Lúc đó anh cả và chị dâu ông chỉ trời đắt thề thốt đủ điều, họ nói với người sắp mất thế này:

– Chúng ta đều là người một nhà! Con em thì cũng như con anh chị. Dù em không để lại tài sản, chẳng có lấy một xu thì anh chị đây cũng nguyện cưu mang, nuôi cháu đến lớn khôn…

Cha Văn Đông nghe những lời tràn đầy nghĩa tình này, sung sướng mỉm cười, an lòng nhắm mắt ra đi.

Khi đó cũng có cán bộ trong thôn và láng giềng đồng chứng kiến, ai nấy đều cảm động rơi nước mắt. Xong tang lễ được mấy ngày, thím Trương láng giềng bỗng nghe Văn Đông bị đánh đập khóc to. Hơn nữa cứ cách năm ba ngày thì nghe hai bác đánh cháu, chửi mắng om sòm, âm vang nghe rõ mồn một. Thím Trương tốt bụng đã nhiều lần can gián, nhưng chuyện vẫn xảy ra như cũ. Sau đó thím phát hiện bé Đông rất ít ra ngoài chơi, thỉnh thoảng nó đứng nơi cửa, nhưng chẳng hề thấy nó cười. Thím Trương bèn đến gần, hỏi han mấy câu, thì thằng bé lộ vẻ sợ hãi không dám nói gì. Thím Trương thấy Văn Đông ốm đi rất nhiều, hơn nữa mặt mày thân thể đầy vết thương. Thấy thế thím Trương không cầm được nước mắt. Dần dà láng giềng, hương thôn ai cũng biết chuyện.
Nhưng khi làng xã chất vấn, thì hai vợ chồng nọ hung hăng nói là tại Văn Đông lì bướng không ngoan. Bọn họ nhận lời ba thằng bé ủy thác thì có quyền quản giáo, cũng chẳng làm gì hại nó. Họ còn trách ngược lại, mắng đám người ngoài lo chuyện không đâu, nào có máu mủ chi mà nhúng mũi vào chuyện gia đình họ? Do mọi người không bắt được tại trận chuyện ngược đãi cháu của hai bác Văn Đông, vả lại người ngoài chẳng có quyền can thiệp chuyện nội bộ của họ, dù rất bất bình, nhưng chẳng ai giúp chi được. Một năm, rồi một năm trôi qua, thằng bé dần dần trưởng đại.
Thím Trương nhiều lần thừa lúc hai bác Văn Đông đi vắng, lén đút nhét, chăm bón cho thằng bé, khi miếng bánh, lúc viên kẹo hoặc thứ gì đó… Nhìn thằng bé ăn ngấu nghiến, thím mỉm cười an ủi nó. Văn Đông dù đã lớn nhưng vẫn phải mặc bộ y phục cũ rách từ hai năm trước.
Xuân, hạ, thu… cứ dần qua.
Tới mùa đông thím Trương thấy thằng bé mặc đồ mỏng manh rách rưới ló cả tay chân, nhìn nó co ro đưa tay ôm vai, run rẩy vì lạnh, bà rơi nước mắt quay về nhà tìm y phục cũ của con mình, giặt sạch sẽ, may thêm lớp bông độn bên trong, rồi ngay tối đó đem sang nhà hai bác Văn Đông nói là áo bông con mình chê không dùng nên để cho Văn Đông mặc. Nói xong bà tự tay mặc vào cho thằng bé. 

Trước khi Văn Đông thành nhân, thím còn may cho nó ba bộ áo bông, không lúc nào mà không tiếp tế ẩm thực, có lúc còn dúi cho nó ít đồng lẻ. Cuối cùng Ký Văn Đông cũng trưởng đại, thành tài, có nghề nghiệp ổn định, được nhiều cô gái để ý. Khi Văn Đông đến tuổi kết hôn, anh xin hai bác cho mình ra riêng tự lập. Hai bác dù không muốn, nhưng vì cháu đã lớn, họ sợ lời bình phẩm của láng giềng, bất đắc dĩ phải chìu theo.
Nhưng họ viện cớ gia cảnh khó khăn, chỉ cấp cho Văn Đông một ngôi nhà dột nát cũ kỹ, trống trơn không có gì, bởi toàn bộ đồ đạc họ đã dọn đi hết. Hai người bác này có sáu người con, họ xây nhà mới khang trang cho hai con trai khi chúng thành thân.
Phần Văn Đông, đối với sự ngược đãi của bác, không hề nói một lời than oán. Mỗi khi người trong thôn bất bình, đốc xúi anh đi kiện quan, thì anh nói:

– Bác cả nuôi tôi khôn lớn cũng chẳng dễ dàng gì, nếu không nhờ bác cưu mang, thì tôi cũng chẳng sống đến hôm nay.
Tiền bạc vật chất thường khiến người ta tranh giành. Nhưng có câu rằng: “Trai tốt chẳng tranh điền trang, gái tốt chẳng tranh đồ cưới” hay sao? Nếu như không học hành, không có nghề nghiệp ổn định thì dù sở hữu nhiều tài sản đến đâu, cũng không giữ được lâu. Tôi nhất định học tập, trau giồi kỹ thuật nghề nghiệp thật tốt để làm việc phục vụ hương thôn mình, cho xứng đáng với sự quan tâm yêu thương của dân làng, không phụ ân nuôi dưỡng của hai bác… Dân làng rất quý phục tính nhân hậu thực thà của Văn Đông, ở hiền gặp lành! Giờ đây anh đã là chủ một xí nghiệp trong thôn, hiện có một con đang theo học tại đại học thành phố. Tiểu gia đình của anh sống rất êm ấm hạnh phúc.

Ta hãy nhìn xem hai người bác bội tín vong nghĩa, làm trái lời thề bị báo ứng ra sao? Họ có sáu con: gồm bốn gái hai trai. Con gái đầu của họ 29 tuổi thì bị bịnh sỏi thận chết, con trai cả 29 tuổi cũng bị sỏi thận, không bao lâu thì chết. Con gái út 29 tuổi cũng vướng bịnh bất trị hệt anh chị mình mà tử vong, khiến ba mẹ chúng tâm kinh thịt run, ngày đêm bất an.
Sáu đứa con đã chết mất ba người, sau này còn xảy ra chuyện gì nữa đây? Không bao lâu con trai út của họ kết bè lập đảng đi cướp bóc, gây cãi đánh lộn, bị phán mười năm tù.
Ngày y bị tuyên án, mẹ y bị xuất huyết não, từ đó nằm liệt giường, nhận chịu bao cư xử ghẻ lạnh, mắng chửi của con cái. Do bà không khống chế được đại tiểu tiện, thường trây dính mền chăn, có lúc nằm đó suốt ngày không ai để ý tới. Bà cứ sống cảnh như vậy hơn ba năm rồi chết trong bi ai. Lúc bà chưa chết, thì chồng bà cũng vướng phải chứng si ngốc lú lẫn.
Bà chết được nửa năm, thì một hôm ông đi đường không cẩn thận vấp té, đầu đập xuống đất và từ đó ông ra đi vĩnh viễn. Láng giềng kể tôi nghe câu chuyện này xong thì hỏi:

– Đây có phải là nhân quả báo ứng không? Và chẳng đợi tôi đáp, họ tự nói:

– Ở quê chúng tôi ai cũng bảo đây là trời già trừng phạt cặp vợ chồng bội tín bất nghĩa.

Tôi nói:

– Giống như làm mùa vậy. “Trồng gì thu hoạch đó”, đây là quy luật tự nhiên.

Trước khi Phật đến nhân gian giảng pháp thì luật nhân quả đã tồn tại sẵn trong thiên nhiên, phàm phu không hiểu, nên cứ trồi hụp trong biển khổ sinh tử, không chịu thoát ly. Chư Phật Bồ-tát từ bi, thừa nguyện trở lại nhân gian, giảng thuyết chân tướng vũ trụ và chỉ cho chúng ta phương pháp xuất ly khổ ải.
Chúng ta nhất định phải nắm ngay cơ hội được mang thân người này, y pháp tu hành, sớm chứng Bồ-đề mới là con đường chân chánh trong nhân gian.

 

HD02

 

Trích Báo Ứng Hiện Đời

Tác Giả: Quả Khanh

Người Dịch: Hạnh Đoan

Các Bài Pháp Nổi Bật

"Tự Mình Chẳng Về, Về Liền Được; Gió Trăng Quê Cũ Há Ai Giành?"

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh
    (năm Dân Quốc 22 - 1933)

    Đã ăn chay trường niệm Phật, [vẫn cần] hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể...
    Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp?

  • Quanh Năm Niệm Phật

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao

    Nhận được thư ông từ ba hôm trước, biết lệnh lang là Hà Sanh đã niệm Phật vãng sanh. Tuy về Thế Đế, tựa hồ [đó là] chuyện bất hạnh, nhưng vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao. 

  • Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

  • Mô tả

    Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

    1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.

  • Chứng Bất Thoái Ngay Trong Hiện Đời

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Pháp Môn Vừa Cực Khó Vừa Cực Dễ

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh

    Ông đã biết lợi ích của việc niệm Phật thì từ rày hãy nên gắng công hơn để tự được nhất tâm. Nhưng một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh, chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực để vãng sanh.

  • Đắc Đà-Ra-Ni

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Chiếu Tột Mười Phương

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Hễ Có Tín Nguyện Thì Không Một Ai Chẳng Được Thấm Nhuần, Viên Đốn Thẳng Chóng

  • Mô tả

    Luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu

    Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo đó thôi! Nhưng vì chúng sanh căn cơ bất nhất, khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp diệu minh, nếu không phải là người túc căn thành thục lại muốn ngay trong một đời này hoàn thành thì thật là hiếm có mấy ai.