Vô Tình Trì Trai, Khỏi Bị Chết Chìm

NPSTD7

 

Vô Tình Trì Trai, Khỏi Bị Chết Chìm

Vô Tình Trì Trai, Khỏi Bị Chết Chìm 

Năm thứ 2 niên hiệu Khang Hy (1663), có một chiếc thuyền đánh cá đỗ ở bến Tiểu Cô Sơn, đêm nghe tiếng thần núi mệnh lệnh với quỷ tốt: “Ngày mai có hai chiếc thuyền chở muối chạy qua, có thể bắt họ lại”. Đến sáng mai, quả nhiên có hai chiếc thuyền đến, lập tức trên sông sóng gió nổi lên, mấy lần cơ hồ sắp chìm, rất lâu sau mới may mắn thoát.
Đêm đó, thuyền đánh cá vẫn đỗ chỗ cũ, nghe thần núi la bọn quỷ tốt trái lệnh, quỷ tốt nói: “Khi tôi đi bắt họ, một chiếc thuyền đằng sau có Bồ-tát Quan Âm, một chiếc thuyền đằng trước có tam quan đại sĩ, cho nên không dám đến gần”. Hôm sau, người đánh cá đi hỏi một người trên thuyền chở muối, người trên thuyền chở muối không tin. Nghĩ một chốc, anh ta bỗng nhận ra nói: “Người lái cuối thuyền là trì trai Quan Âm, ăn chay; người quản lý đầu thuyền là trì tam quan trai”.

 

THẦN HỘ GIỚI


Phụ:

Quan Âm trai kỳ: mồng 8 tháng giêng, mồng 7 tháng 2, mồng 9 tháng 2, 19 tháng 2, mồng 3 tháng 3, mồng 6 tháng 3, 13 tháng 3, 19 tháng 3, mồng 8 tháng 4, 22 tháng 4, mồng 3 tháng 5, 17 tháng 5, 16 tháng 6, 18 tháng 6, 19 tháng 6, 23 tháng 6, 13 tháng 7, 16 tháng 8, 19 tháng 9, 23 tháng 9, mồng 2 tháng 10, 19 tháng 11, mồng 8 tháng 12, 24 tháng 12.

 


Giải Thích Nghi Hoặc Vật Dưỡng Nhơn


Hỏi: Trời đất nuôi vạn vật, mà con người là tối linh. Chim bay thú chạy, vốn là để nuôi con người, nay cấm sát sanh, bắt ăn chay, há không phải là trái ý trời sao?
Trả lời: Anh đã biết là trời đất sanh vạn vật, là cha mẹ của vạn vật, vậy thì vạn vật chính là con của trời đất, không nên tàn hại lẫn nhau, ỷ mạnh hiếp yếu, tự cho là cao quý mà khinh khi kẻ hạ tiện, vì như vậy sẽ làm cho cha mẹ đau lòng không vui. Nếu vì ăn thịt chúng sanh, bèn nói trời đất dùng những sanh mạng này để nuôi ta, vậy thì lấy đó mà suy, hổ báo ăn thịt người, muỗi hút máu người, cũng nên nói trời đất sở dĩ sanh ra con người là để nuôi hổ báo muỗi mòng.


Hỏi: Đã như vậy, vì sao trời không cấm người sát sanh?
Trả lời: Trời vốn không muốn người sát sanh, do đó chúng ta mới thường thấy quả báo ác mà người sát sanh nhận lấy, đây chính là trời có ý cho người thấy đồng thời thúc giục người đời tỉnh ngộ. Còn như không thể cấm hết mọi người sát sanh, thì cũng không thể cấm hổ báo ăn thịt người vậy.


Hỏi: Đã như thế, cầm thú cho đến các loài thuỷ tộc không nên sanh ra, vì sao chúng lại sanh ra đầy cả thế giới này?
Trả lời: Chúng vì nghiệp lực mới sanh làm súc sanh. Nếu quy nguyên nhân cho trời, thì trời bất công quá. Nếu nói chúng bị khí ác của trời đất mới sanh làm súc sanh, thì xin hỏi vì sao chỉ chúng bị khí ác?


Hỏi: Chủng loại cầm thú rất nhiều, nếu ai cũng giới sát, thì chúng sẽ sanh sản rất nhiều, tương lai sẽ trở thành một thế giới cầm thú thì làm sao?
Trả lời: Giun sán độc trùng, loài người không ăn, nhưng hoàn toàn không thấy một thế giới đầy giun sán. Trên thế giới súc sanh nhiều, chính vì người sát sanh nhiều, oan oan tương báo. Đời này giết súc sanh, đời sau làm súc sanh hoàn trả, thế giới này quả trở thành thế giới cầm thú! Nếu ai cũng giới sát, thì không ai bị quả báo làm súc sanh, đời sau người sanh lên làm trời sẽ nhiều, người đoạ làm súc sanh sẽ ít. Người nước Sở không ăn thịt ếch, ếch lại ít; người nước Thục không ăn thịt cua, cua ngược lại khó kiếm, đây không phải là một chứng minh sao? Hôm nay anh chưa giới sát, mà lại lo lắng súc sanh sẽ nhiều lên, có khác gì hoang đường như chưa gieo giống mà lo sợ người thiên hạ ăn tức bụng!

 

CHIM THÚ


Hỏi: Trời đã ghét sát sanh, sao không biến máu thịt chúng sanh trở thành hôi thối, chẳng phải như vậy con người tự nhiên sẽ không sát sanh nữa sao?
Trả lời: Máu huyết súc sanh vốn hôi thối, nhưng con người ăn lại thấy ngon, có hai nguyên nhân:
Thứ nhất do nghiệp báo của những súc sanh này mà ra, nghiệp báo chưa hết, cho nên máu huyết tự nhiên biến thành mỹ vị, dụ dỗ người ta sát hại.

Thứ hai do nghiệp báo của chính con người, cho nên đầu lưỡi tham ái mỹ vị, khiến món nợ nghiệp báo càng tích càng nhiều, nếu tập nghiệp trừ hết, tự nhiên sẽ không còn tham ăn máu huyết chúng sanh nữa, không cho là mỹ vị nữa. Giống như một người, đời trước làm mèo, lúc nào cũng nghĩ đến bắt chuột; đời trước làm hạc, lúc nào cũng nghĩ đến bắt rắn. Một mai chuyển làm thân người, thì không nghĩ đến bắt chuột, bắt rắn nữa. Có thể thấy mỗi hình thể có một sở thích riêng; sở thích khác nhau, là do hình thể khác nhau; hình thể khác nhau, là do nghiệp duyên khác nhau; nghiệp duyên khác nhau, là do dụng tâm khác nhau, hoặc thiện hoặc ác. Trời còn không thể thay đổi được tâm thiện ác, làm sao có thể biến máu thịt thành hôi thối được!


Hỏi: Những người đồ tể, thợ săn sống bằng nghề sát sanh, dựa vào đó để nuôi gia đình, nay anh khuyên họ không sát sanh, không phải đã cắt đứt đường sống của họ sao? Thương vật không thương người, tôi cho là không thích hợp!

Trả lời: Sống bằng nghề sát sanh, tuy được cơm ăn áo mặc tạm thời, nhưng lại trăm ngàn vạn kiếp chịu ác báo, không có ngày ra. Tôi chính vì thương họ, mới khuyên họ tìm kế sanh nhai khác, anh ngược lại nói tôi cắt đứt đường sống của họ, đây quả là cái thấy của kẻ tiểu nhân.

 

Trích Vạn Thiện Tiên Tư Tập

 

Chu An Sĩ

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.