Phật cáo Di Lặc:
- Kính ư Phật giả, thị vi đại thiện. Thật đương niệm Phật, tiệt đoạn hồ nghi, bạt chư ái dục, đỗ chúng ác nguyên, du bộ tam giới, vô sở quái ngại. Khai thị chánh đạo, độ vị độ giả. Nhược tào đương tri thập phương nhân dân, vĩnh kiếp dĩ lai, triển chuyển ngũ đạo, ưu khổ bất tuyệt. Sanh thời khổ thống, lão diệc khổ thống, bệnh cực khổ thống, tử cực khổ thống. Ác xú bất tịnh, vô khả lạc giả! Nghi tự quyết đoạn, tẩy trừ tâm cấu. Ngôn hạnh trung tín, biểu lý tương ứng.
Phật bảo ngài Di Lặc:
- Tôn kính đức Phật là đại thiện. Thật phải nên niệm Phật, cắt đứt hồ nghi, nhổ trừ ái dục, lấp các nguồn ác. Dạo chơi trong tam giới chẳng hề ngăn ngại. Khai thị chánh đạo, độ kẻ chưa độ. Các ông nên biết mười phương nhân dân từ bao kiếp đến nay xoay vần trong ngũ đạo, ưu khổ chẳng dứt. Lúc sanh ra khổ sở, đớn đau; lúc già cũng khổ sở đớn đau; lúc bệnh khổ sở đớn đau tột bực; lúc chết khổ sở đớn đau tột bực. Xấu xa, hôi thối, bất tịnh, có chi đáng vui? Hãy tự quyết đoạn, rửa trừ cấu nhơ trong tâm, ngôn hạnh trung tín, trong ngoài tương ứng.
Giải:
Phật lại dạy bảo ngài Di Lặc lần nữa; trước hết đức Phật dạy nên tự độ.
Cả hai câu: “Kính ư Phật giả, thị vi đại thiện. Thực đương niệm Phật, tiệt đoạn hồ nghi” (Tôn kính đức Phật là đại thiện. Thật phải nên niệm Phật, cắt đứt hồ nghi) là cương yếu của toàn bộ giáo lý trong Ðại Tạng. “Kính” (敬) là cung kính.
Tịnh Ảnh Sớ giảng chữ “kính Phật” như sau: “Kính trọng, gánh vác Phật ân thì gọi là kính Phật”. “Gánh vác” nghĩa là đảm đương, nhận lãnh. Như Lai vạn kiếp huân tu, nhập Phật tri kiến, rồi dùng tri kiến ấy khai thị bọn chúng ta để tất cả đều được ngộ nhập. Dùng Quả Giác của Phật để làm cái nhân tâm của chúng ta thì chẳng phải tốn công suốt cả ba A-tăng-kỳ, chứng nhập ngay được Phật trí. Ðấy chính là thâm ân của Phật.
Bọn chúng ta phải theo đúng lời Phật khai thị, nương vào văn tự Bát Nhã mà quán chiếu hòng chứng nhập Thật Tướng. Ðấy gọi là “kính trọng, gánh vác Phật ân”. Tuân theo những điều Phật dạy răn trong kinh này hầu đoan tâm chánh hạnh, dứt ác tu thiện, phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm A Di Ðà Phật, sanh ngang qua bốn cõi Tịnh Ðộ, chứng trọn vẹn bất thoái thì mới là tôn kính Phật một cách chân thật. Do vậy, đức Phật nói: “Kính ư Phật giả, thị vi đại thiện”.
Chữ “đại” (trong “đại thiện”) phải hiểu như chữ “đại” được dùng trong từ ngữ “đại phương quảng”: Dứt bặt các đối đãi nên cưỡng gọi là “đại”. Ở đây, kinh nói “đại thiện” nghĩa là điều lành vô thượng.
Sách Hội Sớ lại bảo: “Tam nghiệp kính phụng mới là tôn kính”. Dùng cả ba nghiệp thân, khẩu, ý của chính mình để cung kính, phụng sự Như Lai: Thân nghiệp thanh tịnh, khẩu nghiệp thanh tịnh, ý nghiệp thanh tịnh thì mới gọi là “kính Phật”. Chẳng phải như thế tục cứ nghĩ đốt hương, sụp lạy mới là “kính Phật”. Mật Tông thường nói: “Thanh tịnh tam môn tín Thượng Sư”, “dùng thân, khẩu, ý cúng dường Thượng Sư” cũng là do nghĩa này. Kính Phật như vậy mới thật là “đại thiện”. Sách Hội Sớ còn nói: “Phật như thuốc Thiện Kiến, thấy nghe đều được lợi ích nên gọi Phật là đại thiện”.
“Thật đương niệm Phật, tiệt đoạn hồ nghi” (Thật phải nên niệm Phật, cắt đứt hồ nghi): Niệm Phật mới chính là tôn kính, gánh vác Phật ân vì Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh chính là ân tối thượng trong những Phật ân.
Lại vì niệm Phật chính là “tam nghiệp kính phụng”, thâu nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối; cả ba nghiệp thân, khẩu, ý đều chuyên chú nơi Phật thì mới là quy kính một cách chân thật.
Nếu muốn chân thật niệm Phật thì trước hết phải “tiệt đoạn hồ nghi” (cắt đứt hồ nghi). Tánh của loài cáo hay nghi ngờ nên mới bảo là “hồ nghi”. Hành nhân chẳng dứt nổi nghi thì chẳng dám dũng mãnh tiến lên nên bảo là “còn hồ nghi”. Nên biết rằng: Khi chưa đoạn nổi cội nghi thì sẽ khi tin, khi ngờ, nửa tin, nửa ngờ, hoặc miễn cưỡng niệm thử, nhưng tâm ý chưa yên; hoặc là miệng tuy niệm Phật mà tâm vẫn hâm mộ tông khác. Ðấy đều chẳng phải là chân thật niệm Phật.
Nói tóm lại, nghi tình chưa đoạn, chánh tín khó sanh. Tín nguyện khiếm khuyết thì tư lương khiếm khuyết. Vì thế, Phật dạy phải “tiệt đoạn hồ nghi”, ròng rặt niệm Phật, hâm mộ, hăm hở niệm, dốc trọn cả tính mạng mà niệm cho tới chết! Hoa nở gặp Phật ngộ Vô Sanh Nhẫn. Như vậy mới là “đại thiện”!
Trên đây, Phật đã dạy đoạn nghi niệm Phật; tiếp đó, Ngài lại dạy niệm Phật có thể đoạn nghi. Sách An Lạc Tập viết: “Nếu có thể thường tu Niệm Phật tam-muội thì trừ được tham, sân, si. Chẳng luận hiện tại, quá khứ, tương lai, hết thảy các chướng đều trừ được cả!”. Ngu si kém trí nên tâm hồ nghi. Niệm Phật trừ nghi nên nghi tình tự đoạn.
Hai vị đại sư Liên Trì, Linh Phong đều dạy: “Phật hiệu gieo vào tâm loạn, tâm loạn chẳng thể không thành Phật”. Ðấy chính là ý nghĩa của câu “thật đương niệm Phật, tiệt đoạn hồ nghi” vậy.
Ðối với câu “bạt chư ái dục” (dẹp trừ các ái dục), ngài Cảnh Hưng giảng như sau: “Bạt dục là khiến cho lìa phiền não”. Trong các nhân của những nỗi khổ, tham dục chính là cội rễ nên Phật khuyên phải đoạn trừ ái dục.
“Đỗ chúng ác nguyên” (Lấp các nguồn ác): “Đỗ” (杜) là ngăn bít. Tịnh Ảnh Sớ ghi: “Đỗ chúng ác nguyên là khiến lìa ác nghiệp. Đỗ cũng như bít. Ác nghiệp chính là nguồn gốc của ác đạo, nó được gọi là nguồn của các điều ác. Dạy phải đoạn ác nên bảo là đỗ (lấp)”. Ý nói: Dạy “đỗ chúng ác nguyên” là dạy lìa các ác nghiệp vì ác nghiệp khiến người ta phải đọa ác đạo. Ác nghiệp chính là căn cội của các đường ác nên được gọi là “ác nguyên” (nguồn ác). Bởi thế, phải nên đóng lấp nó.
Câu “du bộ tam giới, vô sở quái ngại” được sách Hội Sớ giảng như sau: “Thần thông biến hóa chẳng phải suy tính gì, thường thể hội tánh Không nên bảo là du bộ”. Ngài Cảnh Hưng bảo: “Trên trời dưới thế, chỉ mình Phật là tôn quý cho nên Ngài du bộ tam giới, biến hóa tùy ý chẳng bị ngăn ngại”.
Như trên đã nói, tác giả Hội Sớ và ngài Cảnh Hưng đứng về phía Phật để bàn luận là vì họ dùng bản Ngụy dịch để giải thích kinh. Nay căn cứ trên bản hội tập thì ta có thể hiểu là: Người kiêm cả phát Bồ Ðề tâm, niệm Phật được vãng sanh thì nương vào oai thần của Phật sẽ đi hóa độ khắp cả tam giới. Kinh nói: “Ư nhất niệm khoảnh, siêu quá ức na-do-tha bách thiên Phật sát” (Trong khoảng một niệm, đi qua cả ức na-do-tha trăm ngàn cõi Phật). Kinh còn dạy: “Tùy ý tu tập, vô bất viên mãn” (Tùy ý tu tập, không gì là chẳng viên mãn). Bởi thế mới “vô sở quái ngại” (chẳng hề ngăn ngại). Người được vãng sanh sẽ du hành mười phương tuyên thị diệu pháp Di Ðà viên đốn: Nhất Thừa nguyện hải, sáu chữ hồng danh, nhằm dẫn dắt kẻ chưa được độ quy hướng Cực Lạc. Vì thế, Phật bảo: “Khai thị chánh đạo, độ vị độ giả” (Khai thị chánh đạo, độ kẻ chưa được độ).
Trong đoạn kinh này, nửa đoạn trước, Phật khuyên dụ chúng sanh đoạn Hoặc niệm Phật; còn nửa đoạn sau Phật lại khuyên chúng sanh nên biết khổ để tu thiện.
“Nhược tào” chính là “nhữ đẳng” (các ông). “Vĩnh kiếp” tức là thời gian kiếp số lâu xa dằng dặc. Nay bảo là “vĩnh kiếp” nhằm hàm ý: Vĩnh cửu của vĩnh cửu, vĩnh cửu vô cực vậy.
“Ngũ đạo” tức là năm đường: Trời, người, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục, như đã giải thích trong câu “hoành tiệt ư ngũ đạo” (chặt ngang năm đường) ở phần trên.
Theo Hội Sớ, cả đoạn: “Nhược tào… ưu khổ bất tuyệt” ý nói: “Từ bao kiếp đến nay tuy gặp nhiều đức Phật, phát đại tâm, nhưng tu thánh đạo khó được thành tựu nên thường bị chìm đắm, lưu chuyển, mãi đến nay vẫn chưa thoát khỏi sanh tử”.
Theo đó, người gặp được Phật vẫn còn nhiều kiếp trầm luân sanh tử, ưu khổ chẳng dứt thì người chẳng gặp được Phật, ưu khổ còn hơn thế nữa! Bởi đó, kinh dạy: “Thập phương nhân dân vĩnh kiếp dĩ lai” (Mười phương nhân dân bao kiếp đến nay) xoay vần trong năm đường, thường đọa vào tam đồ, đau đớn tột bực, không lúc nào hết.
Ấy là vì sanh, chết, già, bệnh đều rất đau khổ, đều là thuần khổ không vui. Cái thân nghiệp báo của phàm phu “ác xú bất tịnh” (xấu ác, hôi thối, bất tịnh) nào đáng yêu thích? “Ác” (惡) là xấu ác, hung ác. “Xú” (臭) là mùi vị khó ngửi. “Bất tịnh” là chẳng sạch sẽ. Kinh Tâm Ðịa Quán dạy: “Tự kiến kỷ thân, tam thập lục vật ác lộ bất tịnh” (Tự xem thân mình, ba mươi sáu thứ xấu ác rỉ ra chẳng sạch).
Ðại Luận kể ra năm thứ bất tịnh: Chủng tử, y xứ, đương thể, ngoại tướng và cứu cánh. Chủng tử chính là tinh cha, huyết mẹ. Y xứ là bào thai. Ðương thể là toàn thân. Ngoại tướng là hình hài. Cứu cánh là rốt ráo. Năm thứ đều bất tịnh.
Thập Nghi Luận lại kể ra bảy thứ bất tịnh: Một là chủng tử; hai là thọ sanh; ba là trụ xứ; bốn là ăn uống; năm là sơ sanh; sáu là toàn thân; bảy là cứu cánh. Cả bảy thứ ấy đều bất tịnh.
Vì thế, cả thân mình lẫn thân người khác đều chẳng có chỗ nào đáng yêu nổi, thuần khổ không vui, lẽ nên phải chán lìa! Bởi thế, tiếp đó, Phật dạy: “Nghi tự quyết đoạn” (Hãy tự quyết đoạn). “Quyết” (决) là tâm quyết định. “Ðoạn” (斷) là cắt đứt nhân ác. Nhân ác chính là như câu tiếp đó nói rõ: “Tâm cấu”. Sách Hội Sớ nói: “Tham, sân, si là tâm cấu (bụi nhơ nơi tâm), trái với ba thứ ấy là tam thiện”. “Tẩy” (洗) là rửa sạch. “Trừ” (除) là dứt bỏ. Vì thế, Phật dạy: “Tẩy trừ tâm cấu”.
“Ngôn hạnh trung tín”: Ngôn là lời lẽ; Hạnh là hành động. Sách Tiên Chú viết: “Làm đúng như lời nói, lời nói đúng như việc làm thì gọi là trung tín”.
Theo ngài Tịnh Ảnh, trong câu “biểu lý tương ứng” (trong ngoài tương ưng), chữ “biểu” (表) chỉ lời nói, chữ “lý” (裏) chỉ cái tâm. Tịnh Ảnh Sớ ghi: “Lời nói là ngoài, tâm là trong. Lời nói chẳng trái với tâm nên bảo là tương ứng”, nghĩa là tâm, khẩu đồng nhất chính là “biểu lý tương ứng”.
Lời sớ còn giảng rộng: “Biểu là biểu hiện, những gì hiển hiện ra ngoài thì đều gọi là biểu”. “Hạnh” cũng là “biểu”. “Lý” (bên trong) là nội tâm, trong ngoài như một nên gọi là “tương ứng”. Ðấy chính là trực tâm như kinh Tịnh Danh dạy: “Trực tâm là đạo tràng”.
Ảnh: Tây Phương Tam Thánh
Phật dạy "Kính ư Phật giả, thị vi đại thiện" (Tôn kính đức Phật là đại thiện). Để được vậy thì phải "Thật đương niệm Phật, tiệt đoạn hồ nghi, bạt chư ái dục, đỗ chúng ác nguyên" (Thật phải nên niệm Phật, cắt đứt hồ nghi, nhổ trừ ái dục, lấp các nguồn ác). Vì thế, niệm Phật chính là tôn kính Phật chân thật [đệ nhất]. Rồi song song đó phải "cắt đứt hồ nghi, nhổ trừ ái dục, lấp các nguồn ác". Như thế mới là đại thiện.
Đoạn tiếp theo Phật nói về nỗi khổ của chúng sanh trong 'vòng tuần hoàn' : Sanh - Già - Bệnh - Chết, tất cả đều là từ "khổ thống" đến "cực khổ thống" [khổ sở đau đớn cùng cực].
Câu “ác xú bất tịnh” (xấu ác, hôi thối, bất tịnh) chỉ cái thân chúng ta đây, "có chi đáng vui?" [Hãy nên nhàm chán tấm thân giả tạm này, nguyện sanh An Dưỡng với thân Kim Cang Na La Diên ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp].
Câu "ngôn hạnh trung tín, trong ngoài tương ứng", suy nghĩ, lời nói, việc làm [trong, ngoài] đều phải tương ưng, không nói một đằng làm một nẻo, hay 'bằng mặt nhưng chẳng bằng lòng', như thế không phải [người] trung tín.
Nói chung, chúng ta cần phải tu học Tịnh Nghiệp Tam Phước [Hiếu dưỡng Cha Mẹ, Phụng sự Sư trưởng, Từ tâm bất sát, Tu Thập Thiện Nghiệp,...]. Tu học [như thế] càng 'giỏi' càng tốt, càng có lợi trên đường Đạo. Rồi [cùng] là Tín nguyện trì danh, Cầu sanh Tịnh Độ. Tu học một cách nghiêm túc, chân thật, như thế mới là "Kính Phật" như lời Phật dạy bên trên. Rồi nhờ cái nhân tu tập đó chúng ta sẽ được cái quả "Đại thiện", đó là vãng sanh Cực Lạc, liễu sanh thoát tử, chứng Bất Thoái, một đời tu hành thành Phật. Tức là siêu vượt ba Đại A Tăng Kỳ kiếp chỉ trong một đời hành đạo [này mà thôi]. Thật quá vi diệu, thù thắng phải không? Vì vậy mỗi chúng ta cần ra sức tu tập, tận dụng cho được nhân duyên này.
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ trích lục
Phẩm 34. Tâm Đắc Khai Minh
Ngài Hoàng Niệm Tổ