Chánh kinh:
Phục hữu chúng bảo diệu y, quan, đới, anh lạc, vô lượng quang minh, bách thiên diệu sắc, tất giai cụ túc, tự nhiên tại thân.
Lại có các thứ y báu tốt đẹp, mũ, đai, chuỗi anh lạc vô lượng quang minh, trăm ngàn sắc nhiệm mầu thảy đều đầy đủ, tự nhiên khoác trên thân.
Giải:
Ðoạn kinh này thuật rõ người cõi Cực Lạc tự tại thụ dụng y phục, vật trang sức.
“Ðới” (帶) là dây thắt lưng (đai). “Anh lạc” (瓔珞): Đàn ông, đàn bà thuộc giới quý tộc Ấn Ðộ thường kết ngọc thành chuỗi để đeo trên mình, gọi là “anh lạc”. Các thứ y phục, trang sức như thế đều bằng các thứ báu hợp thành nên kinh nói: “Chúng bảo diệu y” (Các thứ áo báu tốt đẹp). Vì chúng do các báu hợp thành nên có quang sắc vi diệu như Quán Kinh tả: “Nhất nhất bảo trung, hữu ngũ bách sắc quang” (Mỗi một thứ báu tỏa ra năm trăm sắc quang). Do đó, y phục, vật trang sức có “vô lượng quang minh”. Quán Kinh lại bảo: “Nhất nhất quang minh, bát vạn tứ thiên sắc” (Mỗi một quang minh có tám vạn bốn ngàn màu) nên y phục, vật trang sức có “bách thiên diệu sắc” (trăm ngàn sắc nhiệm mầu). Nói “trăm ngàn” cũng chỉ là cách nói ước lệ để diễn tả một con số rất lớn.
Trong mỗi sắc lại phóng quang minh như Quán Kinh nói: “Lưu ly sắc trung xuất kim sắc quang, pha ly sắc trung xuất hồng sắc quang” (Trong sắc lưu ly tỏa ánh sáng vàng ròng; trong sắc pha lê tỏa ánh sáng màu hồng…) Bởi thế, quang sắc trùng trùng vô tận. Các thứ y phục, vật trang sức trang nghiêm trọn vẹn như vậy tự nhiên hiện trên thân chẳng cần phải nhọc công tạo tác.
Ảnh minh họa: "Này Xá-lợi-phất, nên biết ta ở đời ác năm trược làm việc khó làm này, được quả A-nậu-đa-la tam-miệu Tam-bồ-đề, nói cho tất cả thế gian pháp khó tin này, thật là rất khó."
(Kinh A Di Đà bằng tranh)
Bây giờ hết cái ăn đến cái mặc, đoạn Kinh này miêu tả y phục của nhân dân cõi ấy, "thứ y báu tốt đẹp, mũ, đai, chuỗi anh lạc vô lượng quang minh, trăm ngàn sắc nhiệm mầu thảy đều đầy đủ, tự nhiên khoác trên thân". Y phục trang nghiêm, đẹp đẽ, vừa vặn, phóng ra vô lượng quang minh, trăm ngàn màu sắc, tự nhiên khoác vào thân, tức chẳng cần mặc gì cả, luôn ở bên mình, muốn thế nào thì ra thế ấy, thay đổi thế nào cũng được cả. Dĩ nhiên là chẳng thể 'sexy' hay lõa lồ ra thế vì mọi thứ cảnh vật nơi ấy đều trang nghiêm thanh tịnh, mát mẻ an lạc, không có chuyện dung tục hay thất kính gì ở đây cả. Nói chung cảnh vật, con người, tâm địa đều là 'thoát tục' hết cả rồi, tức vô sắc vô nhiễm, giống cảnh giới của bậc Thánh nhân A La Hán trở lên vậy, ta thấy trong Kinh cũng nói rõ chỗ này, "vui như Tỳ Kheo lậu tận [thông]", tức A La Hán.
Điều này chả bù cho cảnh giới ở Ta Bà này, nhất là trong Tam đồ, vì chút miếng ăn cái mặc mà cắn xé ăn nuốt lẫn nhau, hay gây ra biết bao nạn đao binh tai kiếp, máu đổ đầu rơi, súng đạn vũ khí hỏa lực, rồi nâng cấp lên thành vũ khí hạt nhân, vũ khí hiện đại tối tân, giết chóc thảm sát hàng loạt... suy cho cùng cũng để làm gì? Cơm ngày ba bữa, áo mặc vào thân, tối ngủ giường hai mét, hay nhu cầu vợ đẹp con xinh, rồi chết vào lò thiêu nóng ba ngàn độ ra tro cốt hết, gom lại trong cái quách hai tấc vuông? Sau đó thì linh hồn thần thức đi đâu về đâu đây hởi? Ngẫm lại suốt chiều dài lịch sử con người thấy có đúng vậy không? Bởi vậy nên mới có các cõi Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, A Tu La, Người, Trời để 'thu nạp' những linh hồn bất tử ấy. Chứ nào phải do sự tiến hóa dần dần gì đâu? Cho nên nói Thuyết tiến hóa của Ngài gì đó, chính là một sự bịa đặt trắng trợn vậy, một sự lừa bịp cho cả nhân loại, không hơn không kém, thật sự vậy. Vì sao? Bởi tất cả đều do thân nghiệp tạo ra cả, nên mới gọi là thọ sanh, tức là theo nghiệp duyên trong vòng sanh tử mà thác mà sanh ra cái hình hài, cảnh giới như thế, chứ nào phải do quá trình tiến hóa gì gì đó đâu! Vậy mà hầu như cả thế gian tin theo, rồi bắt con em phải học theo, nhồi nhét vào đầu chúng ta từ nhỏ những thứ ấy. Lấy một thí dụ đơn giản thôi, chẳng hạn loại thủy tức đơn bào sơ cấp nhất gì đó, gọi là động vật bậc thấp nhất mà chúng ta đã từng học, rồi trải qua một tỉ năm sau, liệu rằng loài ấy có tồn tại nữa hay không, hay đã 'tiến hóa' đi đâu rồi? Rõ ràng chúng vẫn sẽ tồn tại, y hệt như hiện tại đây vậy, chẳng khác gì cả, vẫn chỉ là loài đơn bào bậc thấp, vì sao như thế? Đó là vì nghiệp như vậy nên phải thọ sanh ra hình tướng cảnh giới như vậy, khi thọ hết nghiệp rồi sẽ thác rồi chuyển, thứ lớp khác lại kế tục vị trí của chúng, mãi như thế. Rồi chẳng hạn, con bò con trâu, con kiến... một tỉ năm sau hay một tỉ năm trước vẫn là những con vật đó, chẳng tiến hóa thông minh hơn hay gì gì cả.
Chúng sanh xoay vần mãi trong luân hồi lục đạo như thế, vậy có thứ gì không thay đổi, tức mãi 'bất tử' theo thời gian năm tháng hay cảnh giới này kia? Linh hồn là bất tử chăng? Thần thức là bất tử? Dạ chính xác có một thứ bất tử, mà dù ở đâu, cảnh giới nào, nơi nào dù ở Ta Bà này hay ở cõi Cực Lạc cũng vậy, không bao giờ thay đổi cả, mỗi chúng sanh được sở hữu 'một thứ' như thế, đó là gì? Đó chính là Tự Tánh của mỗi chúng sanh vậy. Tự tánh này là bất biến, cho dù chúng sanh có là gì, ở đâu, lúc nào đi nữa vẫn là vậy, bất biến không hề thay đổi mảy may. Cho dù chúng sanh đó có ở dưới Địa Ngục, ở trong Tam Đồ, người, Trời, có là A La Hán, Bồ Tát, là nhân dân cõi Cực Lạc, là Nhất sanh bổ xứ, là Pháp thân đại sĩ, hay là Phật luôn, tất cả đều 'mang trong mình' một cái Tự Tánh có bản chất tương đồng như nhau. Hay nói rõ hơn là có Tự tánh làm Phật, hay gọi là Phật tánh [tức Tự tánh y như các vị Phật]. Cho nên Đức Phật nói: "Chúng sanh là Phật sẽ thành, ta là Phật đã thành" là vậy. Tức là chúng sanh tu hành mãi cho đến khi cái tự tánh trong mình nó hiển lộ hoàn toàn ra, không còn chút mảy may gì chưa hiển lộ cả, khi đó chúng sanh đã chứng đắc Phật quả, thành Phật, đấng Toàn Năng Toàn Giác, hay gọi là bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác vậy.
Chúng ta nói chút như vậy để thấy được rằng, chúng sanh ai ai cũng có 'quyền' tu hành để thành Phật cả, không vị nào là không thể, và Pháp môn Tịnh Độ là con đường ngắn nhất, khả dĩ nhất và đương nhiên dễ dàng nhất để thực hiện được điều đó. Còn những con đường khác thì vòng vèo hơn, chông gai hơn, và khó khả thi hơn, tức không phải vị nào cũng làm được, nói chính xác là xác xuất là rất rất thấp, cực thấp vậy. Rồi sao nữa? Rồi trong Tịnh Độ cũng không phải duy nhất một đường hướng, mà lại 'chia năm xẻ bảy' nữa. Có Pháp thì cần công phu Nhất tâm bất loạn; có Pháp cần buông xả rốt ráo, tức làm sao cho cái tâm trí trở nên rỗng rang, không còn tình chấp dính mắc bất cứ thứ gì ở thế gian nữa, như thế rồi chân thật dụng công niệm Phật thì đảm bảo vãng sanh, bất luận công phu ra sao, quan trọng là buông xả trong tâm tới đâu mà thôi, có rốt ráo viên mãn chưa [chứ chẳng phải buông xả bằng hình thức bên ngoài hay bằng 'cái miệng'], Pháp này là do nhờ tâm trí rỗng rang không dính mắc gì nên câu Phật hiệu mới được phát huy hết diệu dụng, cho nên sau một thời gian sẽ sanh ra Tín tâm chân thật, mà các Ngài gọi là 'Dùng Hạnh để lập Tín', chứ chẳng phải buông xả để cho đạt công phu cao thấp gì ở đây cả, hãy nhớ kỹ điều này với những người theo đuổi cái Pháp này, đặc biệt với người già lớn tuổi, hay các ca sắp ra đi, tức dạng tu theo quãng đường ngắn, quyết chí ra đi vãng sanh luôn. Rồi tiếp tục, có Pháp lại cho rằng bình thời ra sức 'luyện công' để đến lúc cuối 'chiến đấu', tức lúc lâm chung tâm trí phải tỉnh táo sáng suốt, rồi trì niệm một cách chí thành tâm để cầu sanh về Cực Lạc, không được một phút giây lơ là sao nhãn, được như thế thì cũng thành công, liễu thoát sanh tử một đời, được Phật tiếp dẫn về nhưng phải vào Biên Địa một thời gian vậy, để làm gì? Chẳng phải do Phật không từ bi hay ép uổng gì đâu, mà là phải vào đó một thời gian để tiêu trừ hết nghiệp chướng đi [hết tâm nghi hoặc], khi nào hết nghiệp rồi thì được ra khỏi, vào thẳng Chánh quốc, đó chính là đạo lý Nhân quả mà chúng sanh phải gánh lấy, cho nên đến Phật cũng chẳng thay đổi được vậy. Bởi vậy, thay vì vậy thì sao không 'tẩy trừ' cái nghi tâm đó ngay từ bây giờ đi, rồi đến lúc cuối vừa được Phật lực che chở, gia trì bảo vệ cho, vừa được vào thẳng Chánh quốc luôn, khỏi phải chịu cái ách nạn 'năm trăm năm không thấy Tam Bảo, không được nghe Pháp, không thấy Thánh chúng Bồ Tát, hay không được đi cúng dường khắp Chư Phật, rồi nhà phải ở trên đất...'. Cho nên Phật nói "tâm nghi hoặc tổn hại rất lớn, mất lợi ích lớn đối với Bồ Tát" [tức chúng sanh được sanh về] là vậy.
Dĩ nhiên còn một cái Pháp nữa mà chúng ta đã học tập gầy dựng từ lâu, đó là gầy dựng Tín Nguyện tâm chân thật đầy đủ, bất sanh nghi hoặc, rồi chân thật hành trì giữ mãi như thế đến cuối đời, đảm bảo Phật sẽ rước không sót một ai, được vào thẳng Chánh Quốc. Đây chính là Pháp Tông Chỉ Tông Yếu của Pháp môn Tịnh Độ vậy, nên được Phật Bồ Tát, Chư Tổ Sư cực lực khuyến hóa khuyên dạy nên hành theo, tức là Pháp "Dùng Tín Nguyện sâu, trì danh hiệu Phật".
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ
Phẩm 19. Thụ Dụng Cụ Túc
Ngài Hoàng Niệm Tổ