Thư trả lời cư sĩ Huệ Minh
Cụ già tám mươi ba tuổi tháng ngày chẳng còn mấy. Vận nước của Trung Hoa Dân Quốc nguy ngập như trứng chồng. Gặp nhằm hai chuyện này (tức tuổi đã tám mươi ba và vận nước nguy ngập), hãy nên miệt mài niệm Phật để cầu vãng sanh. Lại còn phải suất lãnh người nhà nhất trí niệm Phật để dự bị khi ông qua đời bọn họ có thể trợ niệm. Lại còn phải dặn đi dặn lại lúc ông lâm chung họ chớ nên tắm rửa, thay quần áo sẵn, hỏi chuyện (những điều này hãy nên giao phó sẵn), an ủi, khóc lóc v.v… Mặc cho khi ấy ngồi chết cũng được, nằm chết cũng xong, mọi người đồng thanh niệm Phật; niệm mãi cho tới hơn ba tiếng đồng hồ sau khi tắt hơi rồi mới sắp đặt hậu sự, muôn phần đừng làm quá sớm. Không riêng gì người già chết nên như thế mà ngay người trẻ tuổi chết cũng nên như thế. Đấy chính là một đại sự khẩn yếu nhất lúc cuối cùng. Nếu chẳng tập luyện sẵn và nói sẵn lẽ lợi - hại, chưa có ai chẳng bị quyến thuộc vì phô trương mù quáng mà làm hỏng chuyện.
Một pháp Niệm Phật chính là pháp môn lớn nhất để Phật phổ độ hết thảy chúng sanh. Nếu gặp nguy hiểm, hễ niệm liền có thể gặp dữ hóa lành. Lúc vô sự mà niệm sẽ tiêu tai, tăng phước, nhưng cần phải cầu sanh Tây Phương thì mới là lợi ích lớn lao rốt ráo. Chín trang pháp danh được viết trong một tờ giấy khác. [Những pháp danh] như Tông Viễn, Tông Trì v.v… đều nhằm dạy [người quy y] sùng phụng, noi theo các vị tổ sư hoằng dương Tịnh Độ thuở trước. Tông (宗) là gốc, là chủ. Viễn (遠) chính là Viễn Công đại sư đời Tấn (tên là Huệ Viễn), là Sơ Tổ của Liên Tông. (...)
Thư trả lời cư sĩ Lý Thính Đào
Chỉ tận hết tấm lòng ta để tu...
Nhận được thư, biết đứa con thứ [của ông] bị chết yểu. Khi gặp tình cảnh ấy, lòng người thường khởi lên oán hận, sanh biếng nhác. Hãy nên biết rằng: “Đời người nhân quả phức tạp, hễ có nhân, ắt có quả; hễ có quả, quyết chẳng thể không có nhân!” Biết “nhân trước, quả sau” sẽ chẳng sanh oán hận. Biết “đức cảm được trời”, ắt chẳng đến nỗi gặp nghịch cảnh nhỏ nhoi bèn biếng nhác tu tâm. Ví như trời lúc thoạt đầu thì nóng, chợt đột nhiên mát rượi; hoặc thoạt đầu đang mát, chợt lại nóng hừng hực. Đấy chính là biến động tạm thời, chứ không phải lúc nào cũng thường như thế. Chỉ tận hết tấm lòng ta để tu, chẳng cần bận tâm ta gặp phải nghịch cảnh hay thuận cảnh! Người làm được như thế, ắt sẽ vĩnh viễn hưởng nhiều phước. Nếu do gặp chuyện nhỏ chẳng vừa ý bèn nói “tu trì vô ích”, đấy chính là tri kiến của kẻ vô tri vô thức. Dẫu cho cả đời không gặp chuyện gì trái ý, cũng khó thể đạt đến địa vị “trọn hết bổn phận, vui theo mạng trời”.
Nếu có thể tu trì không lười, ắt sẽ sanh được đứa con tốt lành sống lâu, đức hạnh. Nếu chẳng cần biết tốt - xấu, chỉ cốt sao nó không chết yểu, lỡ nó vơ vét mỡ màng của trăm họ để cất giữ trong ngân hàng ngoại quốc, cũng như [gặp phải] đứa giết cha giết mẹ; có đứa con yêu chẳng bị chết yểu [kiểu đó] có bao giờ là may mắn đâu! Thứ con cái không ra gì ấy nếu chết yểu chính là do đức lớn cảm thành; bởi nó không chết yểu sẽ khiến cho nhân dân cả nước lầm than. Nếu trong lúc đó những đứa con thuộc loại ấy chết yểu hết sạch thì nước ta đâu đến nỗi hết thuốc chữa chỉ còn đợi chết ư? Chỉ nên lắng lòng niệm Phật để tiêu nghiệp hòng chiêu cảm tốt lành (tháng Chín năm Quý Dậu - 1933)
Nam Mô A Di Đà Phật
Đoạn đầu: Cụ già tám mươi ba tuổi tháng ngày chẳng còn mấy. Vận nước của Trung Hoa Dân Quốc nguy ngập như trứng chồng. Gặp nhằm hai chuyện này (tức tuổi đã tám mươi ba và vận nước nguy ngập), hãy nên miệt mài niệm Phật để cầu vãng sanh. Lại còn phải suất lãnh người nhà nhất trí niệm Phật để dự bị khi ông qua đời bọn họ có thể trợ niệm.
Đến độ tuổi Thất thập cổ lai hy trở lên như thế này thì tốt nhất là "hãy nên miệt mài niệm Phật để cầu vãng sanh", rồi lại còn phải "suất lãnh người nhà nhất trí niệm Phật để dự bị khi ông qua đời bọn họ có thể trợ niệm", bởi dù gì lúc ra đi có người trợ niệm vẫn tốt hơn là không có chứ, đúng không? Với dạng đã có Tín Nguyện tâm đầy đủ thì sẽ giúp tăng trưởng thêm phẩm vị, cùng với gieo thiện căn lẫn tín tâm cho hàng con cháu, hữu duyên, còn với dạng Tín tâm chưa tròn đầy thì chắc chắn rất cần trợ niệm rồi, để một là nếu có thể khai thị giúp phát khởi lên được Tín tâm chân thật lúc đó thì thật may mắn thay, sẽ được vãng sanh theo Pháp Tông chỉ Tín Nguyện niệm Phật mà vào thẳng Chánh quốc, còn như không phát khởi được thì cậy nhờ Pháp Biên Địa ngõ hầu mong được Phật cứu vớt sanh vào Biên Địa cũng được liễu thoát sanh tử một đời. Như vậy thì những dạng nào dễ vào được trường hợp đầu, dạng nào thường rơi vào trường hợp sau? Rất đơn giản thôi, với dạng cả đời [từ lúc phát tâm sớm hay muộn, hay giai đoạn về sau] tu đúng đường lối Tông chỉ gầy dựng Tín Nguyện niệm Phật, nếu như vẫn chưa có được Tín tâm chân thật đầy đủ [hay thậm chí với dạng tu mù không biết gì cả] thì đến lúc đó nếu gặp thiện tri thức khai thị đúng Pháp thì rất dễ phát khởi lên được Tín tâm chân thật đầy đủ [tức tin chắc, chẳng nghi], như thế thì ca sẽ được vãng sanh thật thù thắng; còn dạng cả đời tu khác đường lối, như đi theo đường lối cầu công phu đạt Nhất tâm hay dạng cứ trông cậy vào Pháp Hộ Niệm, như thế đến lúc cuối sẽ rất khó thay đổi lại để phát khởi lên được, bởi cái tư duy đã được hun đúc hằn sâu trong tâm khảm rồi rất khó cởi bỏ ra để tiếp nhận cái mới được, nên những dạng này dù có gặp thiện tri thức, đồng tu hộ niệm, khai thị kiểu gì đi nữa cũng vẫn là trông cậy Pháp Biên Địa [với dạng này thì Pháp Hộ Niệm đúng là Pháp Biên Địa vậy]. Cho nên chẳng thà đi cho đúng đường nhưng dù chưa tới nơi tới chốn [tức chưa thể tin chắc chẳng nghi] hay thậm chí dạng chẳng biết gì về giáo lý [cả về việc gầy dựng Tín Nguyện lẫn Pháp Hộ Niệm] cứ chân thật dụng công hành trì cả đời, như vậy mà lúc cuối lại dễ thành tựu hơn. Cho nên Pháp Hộ Niệm tốt nhất là cứ xem như một Pháp trợ duyên trợ hạnh lúc cuối thôi, đừng nên đưa lên thành một Pháp tu để theo đuổi suốt đời, như thế thì sẽ 'triệt tiêu' mọi Tín tâm chân thật hết, đến lúc cuối không cách gì phát khởi lên được đâu, đừng có trông mong như thế. Rồi cứ thấy hộ niệm được nhiều ca vãng sanh rồi 'thần thánh hóa' lên thành cái Pháp tu không thể thiếu suốt đời luôn vậy, bởi thật ra Pháp Hộ Niệm mang lại lợi ích chân thật là không thể phủ nhận, nhưng nó cũng đánh đổi đi quá nhiều mất mát, bởi nếu không có nó thì thậm chí sẽ có nhiều các ca vãng sanh thù thắng hơn nữa, bởi cái Tín tâm chân thật sẽ không bị 'triệt tiêu' bởi cái Pháp này, hay nói rõ hơn là bởi những giáo lý không chuẩn xác của cái Pháp này [tức làm cho hành giả bị phạm vào "tà kiến" vậy]. Đó chính là hai mặt của vấn đề về Pháp Hộ Niệm. Vậy phải như thế nào đây? Dạ vâng, tốt nhất hãy 'trả lại' đúng vị trí mà cái Pháp Hộ Niệm vốn có, tức đó chỉ là Pháp trợ duyên trợ hạnh cho hành giả trong lúc cuối mà thôi, còn bình thời thì hành giả phải tận tâm tận lực tu học theo đúng đường lối Tông chỉ tông yếu của Pháp môn vậy, như thế thì cơ hội một đời thành tựu giải thoát mới cao được.
Đoạn tiếp: Lại còn phải dặn đi dặn lại lúc ông lâm chung họ chớ nên tắm rửa, thay quần áo sẵn, hỏi chuyện (những điều này hãy nên giao phó sẵn), an ủi, khóc lóc v.v… Mặc cho khi ấy ngồi chết cũng được, nằm chết cũng xong, mọi người đồng thanh niệm Phật; niệm mãi cho tới hơn ba tiếng đồng hồ sau khi tắt hơi rồi mới sắp đặt hậu sự, muôn phần đừng làm quá sớm.
Thật sự thì với thời nay chúng sanh nghiệp nặng chướng dày nên cần ít nhất 16 tiếng hay tốt nhất 24 tiếng hộ niệm liên tục sau khi mất, như thế mới đảm bảo thần thức đã ra khỏi. Thậm chí có ca mấy ngày chưa chịu ra luôn. Thật sự đó là những ca nghiệp lực quá nặng, cho nên càng về sau thì việc duy trì thời gian hộ niệm cho người mất càng phải kéo dài ra thêm vậy. Mà những dạng ở lâu trong đó không chịu ra thì thật sự cùng lắm là hộ niệm giúp cho họ được về cõi an lành, tránh được đường dữ là tốt lắm rồi, còn khả năng được vãng sanh là hầu như rất ít. Cho nên, điều cốt yếu vẫn là lúc bình thời còn trẻ khỏe đây hãy sớm phát tâm tu tập cầu giải thoát đi, đừng để đến giai đoạn cuối đời 'nước đến chân mới nhảy' thì liệu làm sao nhảy cho kịp! Mà đã tu thì phải tu cho đúng đường đúng lối, bởi thà tu 'dở' mà đúng [đường lối] còn hơn tu giỏi mà đi trật đường, bởi nếu đi đúng lộ trình mà chân thật, siêng năng dẫu chưa rốt ráo đi nữa, do còn nặng gánh với trách nhiệm bổn phận với gia đình, người thân thì càng về sau việc tu trì sẽ càng trở nên vững chãi chắc chắn, cho đến lúc cuối rất dễ thành tựu được cái Pháp để mà được vãng sanh, chứ còn dạng hãy còn trẻ khỏe, bổn phận trách nhiệm với bố mẹ, vợ chồng, con cái... còn bề bề ra đó mà đã mong 'buông xuống vạn duyên', rồi 'nhất tâm niệm Phật' hay 'Hộ Niệm là một pháp tu [ngay từ ban đầu]'... như thế thì thôi, càng tu càng trở nên bí thế, giống như đâm đầu vào ngõ cụt vậy, rồi tương lai đến lúc cuối cũng chẳng sáng sủa gì nổi đâu, thật sự vậy chứ chẳng phải hù dọa gì cả!
Các đoạn còn lại chúng ta cùng đọc và học tập.
Văn Sao Tam Biên, quyển 2
Đại Sư Ấn Quang
Như Hòa chuyển ngữ