Chánh kinh:
Bỉ Cực Lạc quốc, sở hữu chúng sanh, dung sắc vi diệu, siêu thế hy hữu, hàm đồng nhất loại, vô sai biệt tướng. Đản nhân thuận dư phương tục, cố hữu thiên nhân chi danh.
Trong cõi Cực Lạc ấy, tất cả chúng sanh dung sắc vi diệu siêu thế hy hữu, đều cùng một loại, không có tướng sai biệt; chỉ vì thuận theo tập tục các phương khác mà có tên gọi là Trời hay Người.
Giải:
Phẩm này nói rõ y báo và chánh báo cõi ấy đều vượt xa thế gian, thật là hy hữu.
Trước hết, ta hãy luận về chánh báo.
Trong câu “sở hữu chúng sanh dung sắc vi diệu” (tất cả chúng sanh dung sắc vi diệu), “dung” (容) là hình dáng, dung mạo; “sắc” (色) là sắc tướng. “Vi diệu” (微妙) là tinh vi, khéo léo đến cùng cực.
Hội Sớ giảng chữ “siêu thế hy hữu” như sau: “Chẳng phải là thân hữu lậu, sanh diệt nên bảo là siêu thế. Bản thể của tấm thân là pháp tánh thanh tịnh nên bảo là hy hữu”. Sách Luận Chú cũng có bài kệ rằng: “Thiên nhân bất động chúng, thanh tịnh trí hải sanh” (Chúng trời, người bất động, sanh từ biển trí huệ thanh tịnh). Như vậy, tất cả chúng sanh đều từ thanh tịnh cú biến hiện, vượt xa thế gian nên kinh bảo “siêu thế hy hữu”.
Hơn nữa, họ đều từ liên hoa hóa sanh, chân thân kim sắc, đủ ba mươi hai tướng nên bảo là “siêu thế hy hữu”. Sắc tướng đều giống hệt như nhau nên bảo là “hàm đồng nhất loại, vô sai biệt tướng” (đều cùng một loại, không có tướng sai biệt). Ðấy chính là do các nguyện “thân đều sắc vàng”, “thân đủ ba mươi hai tướng” và cảm thành.
Ngoài ra, chúng sanh trong cõi ấy “giai đắc thần thông tự tại” (đều được thần thông tự tại), “giai tất trụ ư Chánh Định chi tụ” (đều trụ trong Chánh Định Tụ), “đắc Bất Thoái Chuyển” thật sự đều vượt xa trời, người, nhưng vì đa số các phương khác đều có trời, người, nên thuận theo thói đời cũng giả lập những danh từ trời, người. Phẩm Lễ Phật Hiện Quang trong kinh này có nói: “Duy thị chúng bảo trang nghiêm, thánh hiền cộng trụ” (Cõi ấy chỉ trang nghiêm bằng các báu, là nơi thánh hiền cùng ở). Ðã toàn là bậc thánh hiền thì lẽ đâu thật có trời, người như trong thế gian?
Ảnh minh họa: "Tôi nghe như vầy. Một thuở nọ, Phật ở nước Xá Vệ, nơi vườn của ông Cấp Cô Độc và cây của ông Kỳ Đà, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ Kheo tụ hội, đều là bậc đại A La Hán mà mọi người biết đến. Ðó là Trưởng lão Xá-lợi-phất, Ma ha Mục-kiền-liên, Ma-ha-Ca-Diếp, Ma-ha-Ca-chiên-diên, Ma-ha-Câu-hy-la, Ly-bà-đa, Châu-lợi-bàn-đà-dà, Nan-đà, A Nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề..."
(Kinh A Di Đà bằng tranh)
Chúng ta đến với Phẩm 18, Siêu Thế Hy Hữu. Trong Phẩm này Đức Thế Tôn tiếp tục giới thiệu về Y báo và Chánh báo nơi cõi Cực Lạc. Trong đoạn này đó là "tất cả chúng sanh dung sắc vi diệu siêu thế hy hữu, đều cùng một loại, không có tướng sai biệt", "chỉ vì thuận theo tập tục các phương khác mà có tên gọi là Trời hay Người". Thông thường trong các cõi nước khác thì hình tướng dung sắc của chúng sanh đó là do nghiệp lực tạo nên, mà do nghiệp lực của mỗi cá nhân mỗi khác nên hình tướng của mỗi chúng sanh cũng khác biệt vậy, chẳng ai giống ai hoàn toàn cả. Ví dụ, ở thế gian này, giữa hai người sinh đôi [cùng trứng] nhưng liệu hình dáng có giống nhau hoàn toàn không? Rằng có thể lúc mới sinh ra thì do cùng một trứng nhân làm đôi nên có thể sẽ giống nhau như hai giọt nước vậy. Tuy nhiên khi lớn lên, nghiệp lực mỗi cá nhân bắt đầu chi phối ảnh hưởng, nên càng lớn thì hình tướng bắt đầu có khác biệt, dù ít hay nhiều, có thể là một người cao hơn một chút, hay gầy hơn một chút... Nói chung là chúng sanh ở đây chẳng ai giống ai hoàn toàn cả, cụ thể như một số đặc thù để làm sinh trắc học như dấu vân tay, giọng nói, ADN... Trong khi đó thì ở cõi nước Cực Lạc thì tất cả đồng như nhau cả, giống như 'cùng một khuôn đúc ra' vậy, tức giống hệt luôn, không có khác biệt gì cả, chỉ có cách vận dụng y phục này kia là khác nhau thôi tùy theo sở thích mỗi cá nhân, cũng như cách tu tập hành trì, niệm đạo, hành đạo... thì mỗi người mỗi ý mỗi cách. Chúng ta thấy ở trên đó không cần phép tắt gì cả, hoàn toàn tùy sở thích, ai muốn làm gì làm, tu cái gì thì tu, không có sự cưỡng cầu hay thúc ép gì cả, chứ không phải như nhiều người nghĩ chắc về đó là phải chịu gò vô khuôn phép nghiêm minh hay giới luật gì căng lắm đây, rằng phàm phu này làm sao chịu nổi, rồi chắc phải đợi tu thêm vài ba đời kiếp gì nữa đã cho tinh tấn 'ngon lành' hơn chút đã. Dạ quý vị không phải lo nghĩ như thế đâu, bởi Phật đã lo cho quý vị tất cả hết rồi, một khi về được đó thì phàm phu hay chẳng phàm phu gì thì cũng chẳng bao giờ bị phạm giới hay phiền não tham sân si dấy khởi, hay tạo nghiệp bất thiện hay bị thoái chuyển gì cả. Đó là nhờ đâu? Đó là nhờ y báo và chánh báo nơi cõi ấy luôn trợ duyên trợ pháp trợ lực khiến cho nhân dân ở đó luôn được như vậy, luôn cảm thấy hoan hỉ, an lạc, 'vui như Tỳ Kheo lậu tận' vậy, tức coi như đã đắc Lậu tận thông [A La Hán], tâm không còn bị 'rò rĩ' [lậu hoặc] nữa. Cho nên đừng có suy nghĩ như thế hay nghe người khác nói thế mà tin theo, rồi đánh mất đi Tín Nguyện tâm chân thật cầu giải thoát trong đời này.
Chỗ "chỉ vì thuận theo tập tục các phương khác mà có tên gọi là Trời hay Người", ở cõi đó cũng có Trời, Người nữa sao? Thật ra Đức Phật đã nói rõ "chỉ vì thuận theo tập tục các phương khác mà có tên gọi là Trời hay Người", chứ chẳng có khác biệt gì cả giữa họ, có chăng chắc là các vị ở trên cao thì gọi là 'Trời' còn người ở dưới đất thì gọi là 'Người' vậy thôi, còn tất cả y báo chánh báo đều y hệt như nhau cả, còn nếu có khác biệt về đạo lực này kia đó là do cảnh giới, phẩm vị, công phu tạo nên vậy. Nói chung tất cả nhân dân ở đó đều là 'ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đep' cả, và rằng thân 'kim cang bất hoại', tâm thì 'vui như Tỳ Kheo lậu tận', còn thần thông đạo lực thì 'gấp ngàn vạn ức lần' Chư Thiên nơi cõi Dục này.
Thử hỏi một cõi nước thù thắng như vậy thì sao chúng sanh không chịu về? Một khi không biết thì thôi, còn đã biết thì nhất định phải 'tìm cách' mà về cho bằng được chứ? Ở lại làm chi nơi cái cõi Ta Bà ô uế, ngũ trược này? Dĩ nhiên chẳng có gì tự nhiên mà có cả, cũng chẳng ai cho không biếu không ai điều gì, tất cả đều phải 'có qua có lại' [nhân quả] hết cả, kể cả pháp thế gian hay xuất thế gì cũng vậy. Với Pháp xuất thế, đó là gì? Đó là rằng Đức Phật, Chư Tổ Sư các Ngài chỉ dạy cho cái Pháp để về, còn chúng sanh muốn về thì phải thực hiện theo cái Pháp mà các Ngài đã truyền trao đó, bởi không ai làm 'dùm' cho ai được cả, kể cả Đức Phật cũng vậy, không thể làm thay chúng sanh được. Bởi nếu làm thay được thì các Ngài đã làm thay chúng sanh hết cả để tất cả đều được về đó, đều được liễu thoát khỏi sanh tử khổ đau từ lâu rồi, chứ có đâu mà 'chật kín' chúng sanh trong Địa Ngục, Tam Đồ thế này cơ chứ? Cho nên, nhân quả ai làm nấy hưởng [hay chịu], tất cả chỉ là giúp nhau trợ duyên trợ lực hết mức có thể mà thôi, còn cái nhân gieo trồng thì mỗi người phải tự hành lấy vậy. Chẳng hạn, với Pháp Phật đưa ra, thì có người tin có người không, ai tin theo hành theo thì được nhờ, còn ai chẳng tin nổi hay chẳng chịu tin thì đành chịu thôi, chứ bắt người khác phải tin 'dùm' cho thì làm gì có chuyện đó được. Hoặc giả, trong quá trình khi học tập lời Phật, lời Chư Tổ Sư chỉ dạy, có người thì 'bật' ra được cái cách để có được Tín tâm chân thật chẳng nghi, nhưng có người thì không hay chưa, hay thậm chí có người cũng 'bật' nhưng ngược lại, cho rằng như thế là không thật chẳng đáng tin? Bởi vậy, nói chung là các Ngài chỉ giúp về Pháp, còn việc hành cái Pháp đó thì chúng sanh phải đổ mồ hôi công sức, trí lực ra mà thực hiện vậy. Chứ không phải thấy nói cái Pháp này dễ, rằng ai cũng có thể thành tựu được, rồi đâm ra ỷ lại, lười nhác, biếng trễ được. Rằng đây là Pháp cậy vào Tha Lực, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta chẳng phải làm gì, hay không phải bỏ công sức, tâm trí hay thời gian gì cả mà có được thành tựu! Đồng ý là Pháp cậy nhờ vào Phật lực, nhưng điều cốt yếu ở đây đó là gì? Đó là làm sao cậy được vào Phật lực, đó mới là yếu tố quyết định, chứ đâu phải nói muốn [cậy nhờ] là có được đâu, nếu thế thì ai ai chẳng muốn [cậy nhờ], có đâu mà người tu quá trời mà người được thành tựu giải thoát thì lại ít hơn hẳn. Cụ thể, với Pháp này thì như các Ngài nói "Được vãng sanh hay không là do có Tín Nguyện hay không", vậy để có được Tín Nguyện [đầy đủ chân thật] thì cần phải làm gì? Cái này mà không tận tâm tận sức ra học tập, hành trì thì làm gì có được cái Tín Nguyện tâm này? Hay cụ thể hơn nữa, trong Bổn Nguyện của Phật nói chỉ cần 'mười niệm tất sanh', mới nghe qua nghĩ đâu mà dễ dàng quá vậy, chắc là mười niệm này dành cho lúc lâm chung chứ đâu dễ thế? Dạ vâng, dễ lắm, nhưng cứ tin tưởng chẳng được nghi hoặc gì nhé, xem có tin nổi không mà nói dễ với khó, mà cái gì chưa làm được thì nhất định không thể xem là dễ rồi, tại sao? Bởi chỉ là kẻ 'ngoài cuộc', đứng bên ngoài ngó rồi phán thôi, như vậy làm sao phán cho trúng được, cứ thử 'thâm nhập' vào đi thì sẽ biết dễ hay khó ngay thôi mà. Cho nên với cái Pháp này [theo đúng đường lối Tông chỉ tông yếu], những người không đủ duyên không biết thì không nói, còn những ai đã biết nhưng tỏ ra xem thường, bỏ qua, hay nói chẳng đáng tin [do cho rằng đâu mà dễ vậy] thì toàn là dạng đứng bên ngoài mà phán, chẳng chịu thâm nhập [nên mới nghĩ như vậy]. Cứ thử tam tứ phen 'lăn lê bò trườn' trong cái Pháp đó thì mới ngộ ra được, mới 'bậc' ra được cái Tín tâm chân thật. Chứ còn những dạng kiểu đứng bên ngoài 'tham khảo' chơi thì thôi, đừng có trông mong, bởi có nói gì với họ đi nữa cũng vô ích, chẳng có tác dụng gì, thậm chí còn bị xem 'thần kinh' hay 'ảo giác' gì đó cũng không chừng! Cho nên, cứ hãy trầy trật, 'bầm dập' một thời gian đi đã, nếu ai vẫn cứ kiên trì quyết chí không bao giờ thoái lui, rằng bằng mọi cách phải làm sao phát khởi được cái Tín tâm này [hiểu theo đúng nghĩa lý] thì như thế, nhất định sẽ có được cái nhân duyên trợ lực đúng nghĩa dưới hình thức này hay hình thức kia, nhân gian thường nói rằng 'Trời không phụ lòng người có tâm' là vậy.
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ
Phẩm 18. Siêu Thế Hy Hữu
Ngài Hoàng Niệm Tổ