Chánh kinh:
Nhất nhất quang trung, xuất tam thập lục bách thiên ức Phật. Thân sắc tử kim, tướng hảo thù đặc. Nhất nhất chư Phật, hựu phóng bách thiên quang minh, phổ vị thập phương thuyết vi diệu pháp. Như thị chư Phật, các các an lập vô lượng chúng sanh ư Phật chánh đạo.
Trong mỗi quang minh xuất hiện ba mươi sáu trăm ngàn ức Phật thân sắc tử kim, tướng hảo thù đặc. Mỗi một vị Phật lại phóng trăm ngàn quang minh, vì khắp mười phương nói pháp vi diệu. Các vị Phật như thế mỗi vị an lập vô lượng chúng sanh nơi Phật chánh đạo.
Giải:
Ðoạn này trần thuật sự kiện trong quang minh hóa hiện chư Phật.
Trong đoạn kinh này, có bốn ý chính:
1. Một là số lượng đức Phật hiện ra trong mỗi quang minh: “Nhất nhất quang trung, xuất tam thập lục bách thiên ức Phật” (Trong mỗi quang minh xuất hiện ba mươi sáu trăm ngàn ức Phật).
2. Hai là thân tướng chư Phật: “Thân sắc tử kim, tướng hảo thù đặc” (Thân màu tử kim, tướng hảo thù đặc). “Tử kim” (紫金) chính là vàng ròng đã được giùi mài đến sáng bóng. “Tướng hảo” của Phật thì như Quán Kinh nói: “Vô Lượng Thọ Phật hữu bát vạn tứ thiên tướng. Nhất nhất tướng các hữu bách vạn tứ thiên tùy hình hảo” (Vô Lượng Thọ Phật có tám vạn bốn ngàn tướng. Mỗi một tướng đều có tám vạn bốn ngàn tùy hình hảo) cho nên bảo là “thù đặc”.
3. Ba là Phật hiện ra trong quang minh cũng lại phóng quang: “Hựu phóng bách thiên quang minh” (Lại phóng trăm ngàn quang minh).
4. Bốn là Phật nói diệu pháp: “Phổ vị thập phương thuyết vi diệu pháp” (Vì khắp mười phương nói pháp vi diệu). Những pháp ấy lại có lợi ích thù thắng nên “an lập vô lượng chúng sanh ư Phật chánh đạo” (an lập vô lượng chúng sanh nơi Phật chánh đạo).
Những điều như vậy thật đã hiển thị sâu xa pháp giới sự sự vô ngại chẳng thể nghĩ bàn. Hoa sen trong cõi Phật sanh từ tâm Phật; hoa sen phóng quang, quang minh lại hiện ra nhiều vị Phật. Phật lại phóng quang, thuyết pháp độ sanh, thật là vô tận. Lại cần phải chú ý là cảnh giới như vậy chẳng những chỉ thị hiện diệu tướng mà thật sự còn có vô biên diệu dụng: Nói pháp vi diệu an lập chúng sanh trong chánh đạo của Phật. Ðấy chính là cái lợi chân thật. Vì thế, đoạn kinh này thật sự đã hiển thị trí huệ chân thật, Chân Thật Tế, vô vi Pháp Thân.
Sách Hội Sớ nói: “Tây Phương Tịnh Ðộ dùng hoa sen để làm Phật sự nên có tên là Liên Hoa Thai Tạng Giới. Tiểu Bổn, Quán Kinh đã nói kỹ việc ấy. Nay kinh này (chỉ bản Ngụy dịch của Vô Lượng Thọ kinh) cũng dùng ngay việc ấy để kết lại phần nói về y báo trang nghiêm. Như vậy, trong các thứ trang nghiêm trước đó cũng đều có những việc bất khả tư nghị”. Ý kiến này rất xác đáng; những điều kinh thuật trong những phẩm trước cũng đều hiển thị toàn thể cõi Cực Lạc là pháp giới sự sự vô ngại chẳng thể nghĩ bàn.

Ảnh minh họa: "Này Xá Lợi Phất, Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã mười kiếp. Lại này Xá Lợi Phất, Đức Phật kia có vô lượng vô biên chúng đệ tử Thanh Văn đều là bậc đại A La Hán, không thể tính đếm mà biết được, các chúng Bồ Tát cũng đều như thế".
(Kinh A Di Đà bằng tranh)
Đây là đoạn Kinh văn tiếp tục nói về hoa sen và quang minh của hoa sẹn trong ao Thất Bảo nơi cõi Cực Lạc. "Trong mỗi quang minh xuất hiện ba mươi sáu trăm ngàn ức Phật thân sắc tử kim, tướng hảo thù đặc". Tức là trong mỗi mỗi quang minh của hoa sen có thể thấy được vô lượng vô biên Đức Phật trong đó, "thân sắc tử kim, tướng hảo thù đặc", rồi "mỗi một vị Phật lại phóng trăm ngàn quang minh, vì khắp mười phương nói pháp vi diệu". Nói chung nhìn vào hoa sen thì có thể thấy vô lượng vô biên Đức Phật đang diễn nói Pháp cho chúng sanh khắp thập phương nghe, rồi ai muốn nghe cái gì hay nghe vị Phật nào là có cái đó, không hề thiếu sót gì cả. Cho nên hoa sen nơi cõi ấy cũng là đang làm Phật sự, trợ thủ đắc lực cho việc hành đạo của nhân dân cõi ấy. Bởi vậy mỗi mỗi y báo chánh báo nơi cõi ấy đều làm Phật sự, đều trợ duyên trợ hạnh cho việc tu đạo của hành giả, tùy theo ý thích, miễn là giúp họ nâng cao năng lực, cảnh giới, đạo lực, không hề bị thoái chuyển hay đứng yên một chỗ. Chúng ta đọc phần chú giải để biết rõ hơn về nghĩa lý đoạn Kinh văn này.
Chúng ta tiếp tục nói một chút về việc gầy dựng Tín Nguyện tâm trong tu học, ngõ hầu tất cả đều một đời này liễu sanh thoát tử, lìa khổ được vui cả. Thật sự với Pháp môn này, các Ngài hay nói đây là Pháp 'vừa cực khó vừa cực dễ', tức là khó thì cũng cực khó mà dễ thì cũng cực dễ, tức là sao? Dễ tới mức không thể tưởng được, tới mức không thể tin được nổi luôn [với suy nghĩ của người thế gian]. Bởi người thế gian thì quen với các Pháp thế gian, rằng 'tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ', hay 'có làm thì mới có ăn', tức là việc việc gì gì đều phải đổ mồi hôi công sức ra mới có được. Còn với Pháp môn này thì bản chất không phải như vậy, nên mới nói là nó khác biệt hoàn toàn [về bản chất] với các Pháp tự lực [thế gian] thông thường, cho nên các Ngài mới nói rằng đừng nên lấy tư tưởng của các Pháp tự lực thông thường mà luận Tịnh Độ là vậy. Vậy bản chất của Pháp môn này là gì? Đó chính là nương vào Tha Lực của Phật. Tức là sự thành tựu của chúng sanh đó không phải là do cái lực của chúng sanh tạo nên, mà là do cái Lực của Phật ban cho họ nên mới được thành tựu như thế. Bởi vậy, với các Pháp môn thông thường thì chúng sanh công lực càng mạnh, trí huệ càng cao siêu thì sự thành tựu càng cao, hay cơ hội thành tựu giải thoát hay chứng đắc gì đó [như A La Hán chẳng hạn] càng được tăng lên, hay càng nhanh thành tựu. Nhưng với Pháp môn này, điều này lại không chuẩn xác, tức không phải lúc nào cũng tỉ lệ thuận như thế. Nguyên do là như đã nói, cái bản chất vốn đã khác biệt hẳn rồi, thế nên đường lối, phương tiện, cách thức, tư tưởng để hành đạo cũng sẽ khác biệt hẳn ra vậy, không thể nhập nhằn được, bởi càng nhập nhằn lẫn lộn là lại càng không đúng với cái Pháp này. Nếu vậy thì để thành tựu được cái Pháp này trong một đời này thì hành giả phải thực hành như thế nào? Mà trong Kinh gọi là "thọ trì" ra làm sao?
Như đã nói thì bản chất của Pháp môn này là nương vào Tha lực của Phật [để thành tựu], nên để thành tựu thì cũng rất đơn giản như thế thôi, hành giả chỉ cần nương được vào Tha lực của Phật thì chắc chắn thành tựu vãng sanh trong đời, chẳng cần gì khác, bất luận họ là ai, [tu] giỏi dở cao thấp thế nào không cần biết, cho nên hoàn toàn không giống như các Pháp môn khác, ở đây chỉ cần thực hiện được điều đó là đương nhiên thành công. Giống như muốn vượt biển khơi chỉ cần lên được thuyền lớn là chắc chắn đến được bến bờ bên kia, bất luận 'hành lý' [túc nghiệp] nặng nhẹ mang theo thế nào, miễm là lên được thuyền là chắc chắn thành công. Còn như dẫu bơi giỏi hay thân thể cường tráng gì đó đến đâu đi nữa nhưng nếu không chịu lên thuyền hay không lên được thuyền thì cũng chẳng tới được bến bờ kia, đành hẹn lại kiếp sau nào đó vậy. Mà 'con thuyền' ở đây thì mênh mông, sức mạnh vô tận, rằng bao nhiêu cũng chứa hết, bao nhiêu cũng chở được, chắc chắn đến đích, chứ chẳng phải số lượng phải 'hạn chế' hay được canh phòng nghiêm ngặt, hay cần chọn lựa lấy bỏ gì cả, cho 'lên' tất hết, chẳng chừa một ai, chẳng ngăn cản một chúng sanh nào 'leo lên' cả, tức thâu nhận tuốt hết, khuyến khích lên, càng nhiều càng tốt. Chứ chẳng phải như con thuyền lên nhiều sợ chìm không chở nổi, hay sợ qua bên đó làm 'nhiễm ô' cõi người ta ra! Dạ không bao giờ có chuyện đó đâu ạ, nên đừng sợ đừng ngại bất cứ điều gì cả!
Và bây giờ mới đi vào cụ thể vấn đề, vậy thì làm sao để được lên con thuyền Bổn Nguyện của Phật đó đây? Tức làm sao để nương được vào Phật Nguyện lực đây? Điều này thì chúng ta đã được học tập luận bàn nhiều rồi, từ lời Kinh Phật, lời Chư Tổ Sư. Đó là phải có cảm ứng đạo giao cùng Phật mới được, cụ thể ở đây là không phải cảm ứng đạo giao về những cái [nhỏ lẻ] khác, như cầu cái này cái kia, mà là cảm ứng đạo giao với Nguyện lực tiếp dẫn của Phật, tức với lời Thệ Nguyện tiếp dẫn của Phật, chứ chẳng phải cảm ứng với những hạnh nguyện đơn lẻ, thế gian hữu lậu này kia khác của Phật [từ các Nguyện khác trong 48 Đại Nguyện], mà ở đây phải cảm ứng đạo giao với những Đại Nguyện tiếp dẫn của Phật. Chẳng hạn, cảm ứng với Đại Nguyện 19 "Nhất tâm niệm ngã, trú dạ bất đoạn..." thì 'chỉ cần' hành giả công phu cho đạt Nhất tâm bất loạn thì chắc chắn có cảm ứng đạo giao cùng Phật nguyện lực, lâm chung chắc chắn Phật đến tiếp dẫn về. Hay như Nguyện 21, Sám Hối được vãng sanh, thì phải "nghe danh hiệu con, chí thành sám hối, nguyện sanh về nước con..." thì mới cảm ứng cùng Phật được. Hoặc với Pháp Biên Địa thì phải "liên tục nhớ nghĩ không thôi kết thành thiện nguyện cũng được vãng sanh", tức chí thành tâm xưng niệm, đặc biệt là lúc lâm chung phải liên tục niệm [và nhớ nghĩ] cho đến khi tắt hơi, tức phải chí thành tâm mà niệm, nhất tâm mà niệm, không được sao nhãn hay tạp tâm tạp niệm lúc đó mới được [cảm ứng].
Còn với cái Pháp Tông chỉ tông yếu của Pháp môn [tức Đại Nguyện 18] Tín Nguyện niệm Phật, thì làm sao để cảm ứng cùng Phật Nguyện lực? Rất đơn giản thôi, trong Kinh Phật nói sao cứ y vậy mà làm, rằng Phật nói phải "chí tâm tin ưa" thì phải thực hiện được đúng như vậy, tức hoặc phải "chí tâm tin" hoặc là "chí tâm ưa", hay cả hai, đều được cả. Về "chí tâm ưa" thấy không có chú giải hay liễu nghĩa gì cả, nhưng từ các ca vãng sanh thì chúng ta thấy điều này giống như cứ hành trì dụng công miên mật xuyên suốt thời gian lâu dài, lâu ngày chày tháng thì từ sự diệu dụng nơi câu Phật hiệu sẽ phát sanh ra cái Pháp hỷ, tức sự yêu thích, sự an lạc, sự hoan hỉ, giống như niệm riết thành 'ghiền' niệm Phật, tức niệm Phật với niềm an vui, thích thú, không thể thiếu, không thể không có được. Cho nên hành giả nào mà dụng công đạt đến trạng thái này, chân thật cầu sanh Tịnh Độ, thì nhất định lâm chung sẽ được Phật rước, chắc chắn là như thế. Hay cũng có dạng rất thường thấy, đó là các ca bị bệnh đau hành hạ, gây đau đớn bức bách, rồi nhờ được thiện tri thức khai thị chỉ dẫn, liền niệm câu Phật hiệu, chí thành mà niệm, liền cảm thấy dễ chịu, giảm đau đớn bức bách, từ đó cứ tin tưởng, thích thú mà niệm mãi, càng niệm càng đỡ đau, càng giảm bệnh, càng thích thú, tin tưởng, cho đến 'nếu thọ mạng còn thì tiêu nghiệp hết bệnh, nếu thọ mạng hết thì vãng sanh Cực Lạc', cứ thế mà hành trì, như thế cũng là dạng đạt "chí tâm tin ưa" vậy, nhất định vãng sanh, được Phật rước lâm chung. Cho nên các ca bị ung thư này kia nếu được khai thị hướng dẫn đúng Pháp và người bệnh chịu tin tưởng thực hành thì rất dễ thành tựu là vậy.
Còn như dạng bình thời mà muốn gầy dựng để đạt "chí tâm tin ưa" thì như các Ngài đã chỉ dạy, chúng ta chỉ cần học tập nương tựa vào những giáo lý quan trọng, nhưng đơn giản, cô đọng. Bởi đó chính là những cái Lý chân thật, xác quyết để chúng ta làm điểm tựa để tin tưởng vào Lời Thệ Nguyện tiếp dẫn của Phật, hay gọi tắt là Di Đà Bổn Nguyện. Bởi chỉ cần tin chắc chẳng nghi điều này, thế là đủ [cho việc thành tựu vãng sanh trong đời]. Rồi từ cái tâm lực này mà hành giả "dùng Tín Nguyện sâu, trì danh hiệu Phật" cho đến lúc mãn phần, đảm bảo Phật rước chẳng sót một ai cả. Cho nên bình thời đây chúng ta không thể không ra sức học tập, gầy dựng cùng hành trì, bởi với phàm phu chúng ta đây là điều chân thật, thực tế nhất để toại ước nguyện giải thoát trong đời vậy.
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ
Phẩm 21. Bảo Liên Phật Quang
Ngài Hoàng Niệm Tổ
