“Thật Sự Vì Sanh Tử Phát Bồ Đề Tâm, Dùng Tín Nguyện Sâu Trì Danh Hiệu Phật, Dùng Đấy Để Tự Hành Lại Còn Dạy Người”

NPSTD7

 

“Thật Sự Vì Sanh Tử Phát Bồ Đề Tâm, Dùng Tín Nguyện Sâu Trì Danh Hiệu Phật, Dùng Đấy Để Tự Hành Lại Còn Dạy Người”

Có lắm người vốn sẵn túc căn, tiếc là thiếu người đề xướng

Năm ngoái Huệ Viên đến đây nói ông tu trì không lười nhác, tôi mừng vui, an ủi vô cùng. Nay nhận được thư, biết Hồ Nam có lắm người vốn sẵn túc căn; tiếc là thiếu người đề xướng, nên quá nửa chẳng vào được cửa của đức Phật ta. Thân người khó được, Phật pháp khó nghe, đáng than thở khôn cùng! Ngô Thiệu Di trước kia không tin Phật pháp, do đọc những sách như Nhân Sanh Chỉ Tân v.v… bèn trái trần hiệp giác, sanh lòng tin phát nguyện, tận lực tu Tịnh nghiệp. Nếu chẳng phải đã trồng thiện căn từ trước, sao đạt được như vậy? Ông ta đã muốn quy y, tôi sẽ đặt pháp danh cho ông ta, bảo ông đối trước Phật, tự thệ quy y là được rồi, cần gì phải từ đất Tương sang đất Ngô, bôn ba mấy ngàn dặm để mong gặp mặt Quang một phen? Văn Sao, Gia Ngôn Lục, ông ta đã từng đọc rồi, dẫu gặp mặt, há có diệu pháp bí mật “miệng truyền, tâm trao” nào ngoài Văn Sao nữa ư? Nếu thật sự có pháp “miệng truyền, tâm trao” thì chính là ma vương, ngoại đạo. Tránh xa kẻ ấy còn không xuể, há nên tự khinh tự nhục để gặp gỡ ma vương ngoại đạo đó ư? Huống hồ thời cuộc hiện nay, nguy ngập vô cùng, há nên đi xa?

 

Chỉ mong ông ta có thể giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều thiện, đề xướng nhân quả báo ứng, lục đạo luân hồi, ngõ hầu những kẻ phóng túng không kiêng nể sẽ biết báo ứng thiện ác như bóng theo hình: Hoặc đời này làm thiện hay làm ác sẽ hưởng phước mắc họa ngay trong đời này, hoặc đời này làm thiện tạo ác, đời sau mới chịu thiện báo hay ác báo. Hoặc ba đời, năm đời, mười đời, trăm đời, ngàn vạn ức đời mới chịu quả báo ấy!

 

Tánh tình con người như nước, sự lý nhân quả ba đời luân hồi lục đạo cũng giống như đê
Lại hoặc là có người có chút thành đạt đáng dự vào Văn Miếu, nếu đề xướng chuyện ấy thì chuyện được dự vào Văn Miếu sẽ trở thành tuyệt vọng. Do vậy, mọi người nếu chẳng cực lực bài bác thì cũng trọn chẳng nhắc đến. Cho đến gần đây, gió Âu dần dần thổi sang Đông, ngả rạp theo gió, biến đổi tận gốc càng thêm dữ dội, chỉ sợ con người khác với cầm thú, chỉ sợ con người lỡ có kẻ hiểu biết luân thường, đạo lý! Xét đến cội nguồn hiện tượng ấy quả thật bắt nguồn từ học thuyết “bài xích nhân quả ba đời, lục đạo luân hồi” của bọn Lý Học. Họ mong mỏi dùng chuyện “tận hết tình nghĩa, tận hết bổn phận, chánh tâm thành ý” để làm căn cứ hòng giáo hóa dân chúng, tạo thành phong tục, nhưng đã hoàn toàn phế bỏ rồi lại còn hủy báng, chê trách [nhân quả, luân hồi] là phương tiện khiến cho hết thảy mọi người chẳng thể không trọn hết tình nghĩa, bổn phận, chánh tâm thành ý! Ví như sông cái Trường Giang, do có đê đập nên chẳng ngập lụt. Tánh tình con người như nước, sự lý nhân quả ba đời luân hồi lục đạo cũng giống như đê. Sông cái Trường Giang mà bỏ đê đập đi, chắc chắn sẽ ngập lụt. Tánh tình con người nếu không có nhân quả luân hồi mà vẫn còn dùng lễ để tự ràng buộc thì trong ngàn vạn người, khó được một hai kẻ! Trừ bậc thượng trí ấy ra, ai chẳng nghĩ buông lung tình ý là vui? Do vậy, hiện tại muốn cho thiên hạ, quốc gia tốt đẹp mà không đề xướng nhân quả luân hồi sẽ chẳng được! Điều này không phải là chuyện sức chúng ta không thể làm được, trong gia đình hãy nên cực lực đề xướng, ngõ hầu dần dần được lưu truyền rộng rãi, cũng như ngừa cho con cái khỏi bị những tư tưởng cuồng vọng dụ dỗ, mê hoặc, mong hưởng thụ hết thảy phước tự do.

 

Dùng mưa pháp cam lộ “một đời thành Phật” để thấm nhuần khắp hết thảy

Nghĩa lý “thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật, dùng đấy để tự hành lại còn dạy người” đã ghi chép tường tận trong Văn Sao, ở đây không viết chi tiết. Nay đặt pháp danh cho Ngô Thiệu Di là Huệ Di, ngụ ý: Dùng Phật pháp để tự hành, dạy người. Đặt pháp danh cho Bành Đức Tôn là Huệ Tôn, ngụ ý: Dùng pháp môn Tịnh Độ để khiến cho dù mình hay người đều cùng siêu phàm nhập thánh. Đặt pháp danh cho La Viễn Chú là Huệ Chú, ngụ ý: Dùng mưa pháp cam lộ “một đời thành Phật” để thấm nhuần khắp hết thảy thiện căn của mình lẫn người. Sợ rằng những sách [Lịch Sử Cảm Ứng] Thống Kỷ loại mới, Chánh Tín Lục mới được in gần đây ba vị ấy chưa được xem, nên nay tôi gởi bốn bộ Thống Kỷ, ông tự giữ một bộ, những bộ khác gởi cho ba người ấy. Chánh Tín Lục hơn mười cuốn, hãy ước lượng mà gởi. Sách này phá được những kiến giải lệch lạc, câu nệ của họ mạnh nhất. Ở chỗ ông nếu có sao chép [thư này] thì nên bảo [người chép] sao [toàn văn] cho Thiệu Di, hai người kia chỉ sao chép những điều thông thường, chỉ sao lục lại [ý nghĩa] của pháp danh và gởi sách mà thôi. Sự nguy hiểm hiện thời giống như trứng chồng, bất luận là ai đều nên chí tâm niệm “Nam-mô A Di Đà Phật”“Nam-mô Quán Thế Âm Bồ Tát” để làm kế dự phòng. Nếu có thể khẩn thiết chí thành ắt sẽ có cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn vậy!

 

tnstd115

Nam Mô A Di Đà Phật

Đoạn đầu: Năm ngoái Huệ Viên đến đây nói ông tu trì không lười nhác, tôi mừng vui, an ủi vô cùng. Nay nhận được thư, biết Hồ Nam có lắm người vốn sẵn túc căn; tiếc là thiếu người đề xướng, nên quá nửa chẳng vào được cửa của đức Phật ta. Thân người khó được, Phật pháp khó nghe, đáng than thở khôn cùng! 

Thật sự, thế giới hiện nay có hơn 7 tỉ người, nhưng không phải ai ai cũng có thể tiếp nhận được Phật Pháp, đặc biệt là đối với Pháp môn "một đời thành Phật" này, không phải ai cũng có thể "tín thọ phụng hành" được. Đó chắc chắn phải là người có thiện căn, có túc căn nhiều đời nhiều kiếp tu phước huệ, cúng dường vô số Chư Phật. Bởi "Nếu xa xưa không tu phước huệ, thì Chánh Pháp này không thể nghe", đó là lời Phật dạy. Chúng ta để ý thấy, trên thế giới chỉ có cư dân thuộc [gốc] Đông Á này mới có khả năng cao tiếp nhận được Chánh Pháp này, còn các dân cư [gốc] Âu, Phi, Mỹ, Tây Á... thì rất ít [khó] có khả năng này. Có lẽ cư dân vùng Đông Á [Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Hàn,...] trước đây đã tu nhiều phước huệ, có cùng nhân duyên là cư dân ở cùng khu vực này vậy [cùng những người gốc Á Đông ở khắp nơi trên thế giới]. Cho nên chúng ta thấy, nhân dân một nước, một khu vực, thậm chí một châu lục cũng có cùng nhân duyên tiền kiếp nào đó, cùng có những phước duyên [nhất định] nào đó nên đến đời này mới cùng hội tụ sinh sống cùng một nơi như thế. Rõ ràng là như vậy chứ chẳng phải ngẫu nhiên. Nếu xét riêng ở Việt Nam ta liệu có sự khác biệt [về túc căn] giữa các vùng miền không? Chắc chắn là thế, chẳng tránh khỏi khác biệt [ít nhiều]! Ví dụ, có vùng hay tỉnh lỵ thì thấy nhà nhà đều tu, người người ăn chay niệm Phật, nơi nơi chùa chiềng đạo tràng; còn có nơi thì sát sanh hại vật, cúng tế, người người tạo nghiệp, nghiệp lực chất chồng. Rất có thể những nơi ấy đang thiếu người đề xướng, hoằng truyền, mặc dù thiện căn họ không thiếu, rất có thể là như thế [nhất là các vùng quê xa xôi ở miền Bắc]. Thật sự là như vậy, nếu ai đã từng có nhân duyên 'thấy, nghe' sẽ cảm nhận rõ được điều này. Những nơi ấy, mặc dù đời sống hãy còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, song với Phật Pháp, đặc biệt là Pháp môn Tịnh Độ này, 'hễ bắt gặp là tin' [và hành trì theo], chục người đến chục, trăm người đến cả hơn chín mươi. Đây rõ ràng là "có lắm người vốn sẵn túc căn; tiếc là thiếu người [cùng phương tiện] đề xướng" đấy thôi. Thật đáng tiếc thay, thiện căn nhiều đời nhiều kiếp [của họ] không có nhân duyên để phát huy thành đại lợi ích trong đời này. Mà một khi đời này luống qua, chẳng bắt gặp được thì không biết đến bao giờ nữa bởi "Thân người khó được, Phật pháp khó nghe, đáng than thở khôn cùng!".

Đoạn sau, chỗ "Tánh tình con người như nước, sự lý nhân quả ba đời luân hồi lục đạo cũng giống như đê. Sông cái Trường Giang mà bỏ đê đập đi, chắc chắn sẽ ngập lụt. Tánh tình con người nếu không có nhân quả luân hồi mà vẫn còn dùng lễ để tự ràng buộc thì trong ngàn vạn người, khó được một hai kẻ!"

Với thời đại hiện nay, binh đao, lửa đạn, giết chóc khắp nơi trên thế giới, cứ nối tiếp nhau xảy ra, chẳng ngừng nghỉ, chưa dứt chỗ này lại dấy lên chỗ khác, đúng là xem 'mạng người như cỏ rác'... Nguyên nhân là do đâu [mà thảm khốc như vậy]? Dạ vâng, chắc chắn là do họ không tin [hay không biết] có nhân quả ba đời, có luân hồi lục đạo mà ra cả. Những giáo lý kiểu như: Hãy làm người tốt, người quân tử, nghĩa hiệp,... với họ không ăn thua! Thật sự vậy! Cứ thử đem vài thước phim "Địa Ngục biến tướng đồ" trình chiếu ra trước mắt cho họ xem và rằng, vài năm sau, hay vài tháng sau, vài ngày sau ông [bà] sẽ là những 'hành nhân' ở đó, chịu những thảm cảnh như vậy đó... Trong bao lâu thì được ra? Dạ ít thì chắc cũng cỡ bằng trăm, ngàn lần kiếp người này, nhiều thì phải con số triệu, tỉ năm, hoặc chẳng biết khi nào được ra nữa! Như vậy thử xem có ai còn có tham vọng [ra quyết định] này kia nữa không?

Đoạn tiếp: Nghĩa lý “thật sự vì sanh tử phát Bồ Đề tâm, dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật, dùng đấy để tự hành lại còn dạy người” đã ghi chép tường tận trong Văn Sao, ở đây không viết chi tiết.

Đây chính là Tông chỉ tông yếu của Tịnh Độ tông. Thật sự, chỉ một câu ngắn gọn này mà chúng ta học tập [và hành trì] cả đời không biết có 'xong' không? Nói thì thấy đơn giản, ngắn gọn, nhưng để hành được 'đúng' và đặc biệt là 'đủ' như thế là cả vấn đề, chẳng phải chuyện giản đơn. Rồi duy trì, gìn giữ cả một đời này chẳng đổi. Thật sự chẳng phải chuyện dễ dàng! Muốn được vậy, chắc chắn phải nương tựa vào Kinh giáo, lời Phật, lời Tổ mà tu trì, học tập vậy.

 

Văn Sao Tục Biên, quyển Thượng

Thư trả lời cư sĩ Phan Trọng Thanh (năm Dân Quốc 20 - 1931) (trích lục)

Đại Sư Ấn Quang

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.