Ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh là chánh tông của Tịnh Độ
Bệnh di truyền cũng do túc nghiệp cảm thành, hãy nên chí thành khẩn thiết niệm thánh hiệu Phật và Quán Âm sẽ có thể được lành, chẳng còn di truyền nữa. Nói đến cửa ngõ giải thoát thì chỉ có một pháp tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Đây chính là pháp môn cậy vào Phật lực để có thể thực hiện xong chuyện liễu sanh tử ngay trong đời này. Nếu ai chẳng chuyên tu pháp này mà tu các thứ pháp môn khác thì hạng phàm phu sát đất chẳng thể thực hiện được [chuyện liễu sanh tử] trong một hai đời được! Chúng ta từ vô thủy đến nay vẫn luân hồi trong sanh tử đều là vì trong khi luân hồi vẫn chưa gặp được pháp môn Tịnh Độ, hoặc đã gặp nhưng chưa tu mà ra! Nay may mắn gặp gỡ, đừng để luống qua. Nay đặt pháp danh cho ông là Tông Tín. Do ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh là chánh tông của Tịnh Độ; điều cần thiết đầu tiên là lòng tin chân thật. Có lòng tin chân thật, nhất định sẽ có nguyện chân thật, hạnh chân thật. Nếu không, chẳng gọi là “lòng tin chân thật”. Một pháp Niệm Phật còn có thể siêu phàm nhập thánh, huống là chẳng chữa lành được bệnh di truyền ư?
“Vật [dục] chẳng bị trừ khử”
Đã quy y Phật pháp, ắt phải tận lực thực hiện tám đức “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” và sáu sự “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia” để mong đất nước bình trị, thiên hạ thái bình. Cổ nhân nói: “Thiên hạ chẳng yên, thất phu có trách nhiệm”. Trách nhiệm ấy nằm nơi đâu? Nằm ở chỗ “vật [dục] chẳng bị trừ khử”. Nếu chịu trừ khử, ắt sẽ trí tri, ý thành, tâm chánh, thân tu (một người được như thế thì cũng đã có lợi ích lớn lao. Ai nấy đều như thế sẽ thái bình). “Vật” (物) là gì? Chính là những tư dục trong tâm. “Cách” (格) là “cách trừ” (trừ khử), loại bỏ. Trong tâm con người không có tư dục thì tri kiến tự chánh. Ví như kẻ yêu vợ, yêu con, do trong tâm tình thương yêu lấp chặt, trọn chẳng thấy được những điều xấu của vợ con. Nếu không có tình yêu sẽ thấy ngay vợ con đúng hay sai như gương soi bóng, một tí ti cũng chẳng lầm lẫn.
Nếu luận trên mặt gốc chỉ là một chuyện “cách vật”
Chớ nên hiểu theo cách họ Châu chú giải: “Thúc đẩy tri thức của ta đến cùng cực là trí tri, thấu hiểu cùng tận lý của mọi sự vật trong thiên hạ là cách vật”. Nếu nói như thế thì ngay cả thánh nhân cũng chẳng làm được! Chuyện chánh tâm thành ý dẫu là thất phu, thất phụ không biết một chữ nào, chỉ cần không có lòng ham muốn thiên vị, riêng tư đều có thể làm được! Tám chuyện “cách, trí, thành, chánh, tu, tề, trị, bình” nếu luận trên mặt gốc chỉ là một chuyện “cách vật” (格物: Trừ khử vật dục). Vật dục đã được trừ khử rồi, sự thấy biết sẽ đạt đến tột cùng (trí tri: 致 知), ý thành, tâm chánh, thân tu. Họ Châu biến cội gốc cực thân thiết, cực đơn giản, dễ dàng thành cành nhánh cực xa xôi, cực lợt lạt, cực khó thể cùng tận, chôn vùi gốc đạo trị thiên hạ của thánh nhân, đến nỗi kẻ hậu học học theo thánh nhân mà chẳng hiểu được pháp tắc để thực hiện một cách thân thiết nhất, nên hoàn toàn chú trọng chuyện bên ngoài chứ không tự phản tỉnh bề trong. Đã thế, lại còn đả phá, bài xích sanh tử, luân hồi, nhân quả, báo ứng, cho là không có, đến nỗi hoại loạn Ngũ Luân, Bát Đức, phá xập phên giậu đạo đức. Tội ác khiến cho hết thảy sanh linh lầm than đều phát sanh bởi đây, chẳng đáng buồn ư? Bệnh di truyền ấy rất lớn, rất độc, nếu chẳng phải là bậc đại y vương Đại Giác Thế Tôn sẽ chẳng thể trị được!
Ngõ hầu chẳng uổng cuộc đời này, chẳng uổng dịp gặp gỡ này!
Lời này Quang chỉ nói với ông, ông đừng nói bừa với kẻ vô tri. Nếu không, sợ rằng mọi người đều tuốt kiếm đứng lên, sẽ không có cách nào cứu được đâu! Đã quy y Phật, ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, kiêng giết, bảo vệ sanh mạng, ăn chay, niệm Phật, dùng lòng tín nguyện sâu cầu sanh Tây Phương. Dùng điều này để tự hành, lại còn đem dạy người, ngõ hầu chẳng uổng cuộc đời này, chẳng uổng dịp gặp gỡ này!
Mơ thấy vô số người đến đòi mạng...
Nghề nghiệp của Hoa Tôn hơi khó tu trì, nhưng hễ có lòng Thành sẽ tự có cảm ứng. Nay tôi dùng một chuyện để làm chứng. Nơi đường lớn phía trong cửa Phụ Thành, Bắc Kinh có quán bán thức ăn mặn lớn tên là Cửu Như Xuân, buôn bán rất phát đạt. Một đêm, viên quản lý mơ thấy vô số người đến đòi mạng, tâm biết là những con vật bị giết, bèn nói với họ: “Tôi chỉ có một thân, đền mạng cho các vị đông như vậy thì đền tới chừng nào mới xong? Từ nay tôi chẳng theo nghề buôn bán này nữa, sẽ thỉnh bao nhiêu đó vị hòa thượng niệm kinh, niệm Phật siêu độ cho các vị, được chăng?” Đa số trả lời “được”, chỉ có một số ít không bằng lòng, nói: “Ngươi vì mấy đồng hoặc vì mấy cắc bạc mà giết bọn ta khổ sở lắm. Nếu làm vậy thì thuận tiện cho ngươi quá!” Nhóm đa số khuyên nhóm thiểu số: “Nếu hắn chịu làm như vậy, tốt đẹp cho cả đôi bên, nhận lời hắn đi!” Nhóm thiểu số nói: “Hắn có thật sự làm được thì mới tốt”. Viên quản lý nói: “Nhất định thực hiện được. Nếu không, các ông lại đến tìm tôi”. Do vậy, bọn họ liền bỏ đi.
Nhằm đúng lúc ấy là canh năm phải giết [loài vật], phổ ky thức dậy sắp giết; gà, vịt v.v… đều chạy tứ tán ra khỏi chuồng, họ vội mời viên quản lý thức dậy để thưa chuyện. Viên quản lý nói: “Hôm nay chúng ta không mở cửa, không giết những con đã bỏ chạy. Những con ở trong tiệm thì nhốt lại, con nào bỏ chạy rồi cứ để mặc cho nó đi”. Ngày hôm sau, mời các cổ đông (người góp vốn) đến thuật lại giấc mộng hồi đêm, từ bỏ chuyện làm ăn, quyết định không làm nữa! Cổ đông nói: “Ông đã không muốn sát sanh, chúng ta thay đổi chương trình cũng chẳng trở ngại gì, biến thành quán ăn chay”. Bèn đổi thành quán đồ chay, vẫn mang tên là Cửu Như Xuân. Do vậy, người ăn chay rất đông, càng phát đạt hơn.
Uyển chuyển khuyên mẹ ăn chay, niệm Phật, cầu sanh Tây Phương
Nếu ông có thể phát tâm lợi người lợi vật chí thành niệm Phật và niệm thánh hiệu Quán Âm để cầu gia bị thì người góp vốn và người quản lý đều bỏ được chuyện giết heo, bởi [cửa tiệm bán] hàng hóa mua về từ kinh đô là chuyện chánh, bán thịt chỉ là chuyện kèm thêm. Ông nói ngồi niệm trên giường sợ [mắc tội] khinh nhờn là vì chẳng biết khi ngủ cũng niệm được, nhưng niệm thầm, đừng niệm ra tiếng. Mẹ ông thương yêu ông, nói ăn chay thân thể gầy yếu; cụ chẳng biết ăn thịt có chất độc, chẳng hợp phép dinh dưỡng, lại còn phải nợ mạng. Hãy nên uyển chuyển khuyên mẹ ông ăn chay, niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Cũng nên bảo vợ con ăn chay. Nếu chẳng thể ăn chay hoàn toàn thì nói chung phải chú trọng kiêng sát sanh trong nhà. Dẫu mua thứ đã làm sẵn cũng không nên ăn nhiều. Ăn nhiều phải trả nhiều, ăn ít trả ít, không ăn không phải trả! Nếu ông có thể khiến cho người góp vốn và viên quản lý trong tiệm cảm động thì sau này những người tiếp tục đề xướng sẽ nhiều. Công đức ấy do ông khởi đầu, lợi ích lớn lắm.
Niệm Phật có tín - nguyện, quyết định sẽ được vãng sanh Tây Phương khi lâm chung
Nên thường đọc Văn Sao hoặc Gia Ngôn Lục (Sách này trích lục những điều thiết yếu từ Văn Sao, trình bày theo lối chia môn, phân loại để người mới học dễ xem đọc). Nay đặt pháp danh cho ông là Tông Nguyện (Tông là chủ, có chủ (tức chủ kiến) thì sẽ chẳng bị những thứ khác xoay chuyển). Niệm Phật có tín - nguyện, quyết định sẽ được vãng sanh Tây Phương khi lâm chung. Không có tín - nguyện thì chỉ được phước báo trời - người mà thôi! Có tín không có nguyện thì chẳng gọi là chân tín. Có nguyện mà không có tín thì chẳng gọi là chân nguyện. Hai pháp tín - nguyện như hai bánh của cái xe, như hai cánh của con chim, thiếu một chẳng thể được! Nay gởi cho hai người bọn ông mỗi người một cuốn Đồng Mông Tu Tri. Cuốn sách này tuy nhỏ nhưng những sự tích cảm ứng về Phật học được in kèm theo sách ấy và năm bài văn do Quang viết đều có quan hệ lớn đối với thế đạo nhân tâm.
Chuyện sữa [bị biến thành chất] độc [khi người mẹ nóng giận] giết chết trẻ thơ các nhà danh y xưa nay chưa hề tìm ra. Biết sữa của người nóng giận bừng bừng sẽ giết trẻ thì sẽ biết ăn thịt gây tổn hại lớn lao cho con người. Nợ mạng, đền mạng là chuyện thuộc về đời sau. Sữa độc giết trẻ một khi được chỉ rõ liền biết những người phụ nữ sanh nhiều mà không nuôi được mấy và con cái lắm bệnh đều do người mẹ ưa nóng giận mà ra! Nóng giận đùng đùng [mà cho con bú] con sẽ chết ngay; nóng giận vừa vừa, tuy con chẳng chết ngay, ắt sẽ thường bị bệnh. Phàm muốn cho con cái khỏe mạnh, không bệnh, hãy nên tập thành tánh nhu hòa thì mới được! Xin hai vị hãy suy xét cặn kẽ!

Ảnh: Tượng Phật A Di Đà khởi công từ 2015, cao 72m, phần đế rộng hơn 1.200m2, tại chùa Khai Nguyên, Hà Nội. Đây được xem là một trong những tượng Phật lớn nhất Đông Nam Á.
Đoạn đầu: Bệnh di truyền cũng do túc nghiệp cảm thành, hãy nên chí thành khẩn thiết niệm thánh hiệu Phật và Quán Âm sẽ có thể được lành, chẳng còn di truyền nữa.
Bệnh di truyền đó là do túc nghiệp từ thời cha ông để lại, truyền đến tận con cháu phải gánh lấy, chưa dứt. Nhân gian có câu là 'Đời cha ăn mặn, đời con khát nước' là vậy, tức do túc nghiệp từ tổ tiên ông bà, cha mẹ tạo tác ra rồi truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác phải 'trả nợ'. Ngược lại, cũng vậy, có những thiện nghiệp do cha ông vun bồi để lại cho con cháu nhiều đời sau hưởng phước báu ấy cũng chưa tận. Cho nên, đã chung 'giọt máu đào' thường có nhân duyên rất lớn vậy, hay ít ra cũng cùng chung một số duyên nghiệp nhất định nào đó, nếu không sẽ chẳng bao giờ cùng chung dòng họ máu mủ với nhau cả. Mà đã là bệnh của túc nghiệp thì chỉ có dùng Phật Pháp để 'điều trị' là ổn thỏa nhất, tức phải biết tu tập, dụng công, hành thiện, giữ giới... để tiêu trừ nghiệp chướng, bệnh sẽ tự khỏi thôi.
Tiếp theo: Nói đến cửa ngõ giải thoát thì chỉ có một pháp tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Đây chính là pháp môn cậy vào Phật lực để có thể thực hiện xong chuyện liễu sanh tử ngay trong đời này.
Thường nói đến Tịnh Độ thì người ta nghĩ ngay đến Pháp Niệm Phật, nhưng để đầy đủ phải là Pháp Tín Nguyện niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Bởi mất đi cái Tín Nguyện thì không còn là Tịnh Độ Tông nữa đâu nhé, hay nói cách khác là đã mất đi cái 'hồn' của Pháp môn vậy. Cho nên những ai chỉ hành trì, chẳng chú trọng gầy dựng để có Tín Nguyện thì cao lắm chỉ được Phật 'cứu vớt' vào Biên Địa mà thôi, tức ba bậc chín phẩm, những cung bậc cảnh giới này kia chưa được tính đến. Nên những hành giả theo đường lối này [Pháp Biên Địa] thường có những kiểu câu chữ ủy mị như 'van nài', 'xin xỏ' này kia với Phật thì cũng có lý đấy, bởi bản chất đây chỉ là Pháp cứu vớt, tức không có trong Pháp chính ngạch mà Phật đã tuyên thệ, chỉ do nhờ lòng Thành mà cảm Phật đến cứu vớt lúc cuối mà thôi [nên với Pháp này không chí thành không được đâu]. Còn với Pháp Tông chỉ Tín Nguyện niệm Phật kia là câu chuyện hoàn toàn khác, rằng câu chữ dứt khoát, rõ ràng, có, không, được, mất... rõ ràng phân minh mồn một ra vậy, chẳng có kiểu xin xỏ hay van nài gì ở đây cả, chẳng hạn như 'cầu', 'nguyện', tin, nghi, chắc chắn, nhất định, chẳng sót một ai, "nếu... chẳng thành Chánh Giác"... Còn như các dạng kiểu van xin kia rõ ràng là do chẳng có Tín tâm nên mới ra như vậy, bởi, đã là Pháp mà xin xỏ cái gì! Pháp Phật đưa ra, đơn giản, cô đọng, dễ hành dễ thành tựu, các ông [bà] lại chẳng chịu tin theo, rồi cứ suốt ngày van nài xin xỏ [cho con] thành tựu được cái Pháp còn khó khăn phức tạp nguy hiểm hơn gấp bội, lại chẳng thể thù thắng bằng [tức Pháp Biên Địa], đó là do ai đây? Do hành giả hay do Pháp Phật? Rằng Pháp [Phật] chỉ có yêu cầu phải tin tưởng đừng nghi thôi chứ có phải 'bắt' hành những gì cao siêu chẳng với tới được đâu [như công phu phải đạt này kia] mà bảo khó với tới được? Bởi vậy, chỉ cần gì? Tin tưởng chẳng nghi cái Pháp này [tức Bổn Nguyện] rồi chân thật hành trì giữ đến cuối đời thì chắc chắn sẽ được "cậy vào Phật lực để có thể thực hiện xong chuyện liễu sanh tử ngay trong đời này". Còn như ai muốn 'xin xỏ' này kia là đã không đúng tư tưởng đường lối của Chánh Tông rồi.
Đoạn tiếp: Đã quy y Phật pháp, ắt phải tận lực thực hiện tám đức “hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ” và sáu sự “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia” để mong đất nước bình trị, thiên hạ thái bình.
Tám cái đức này chính là những Tánh đức của con người vậy, hay còn gọi là Nhân tâm [lòng Nhân]. Còn thiếu đi những điều này thì đó là ra 'con' gì đó chứ không còn là con người nữa! Cho nên, tùy mức độ mà sẽ ra 'con người' như thế nào! Nếu thực hiện tốt những điều này, đó chính là một người tốt, quân tử, nam nhi [nữ nhi] đại trượng phu, hay như trong Kinh giáo hay nói đó là 'Thiện nam tử, thiện nữ nhân'. Tức những hạng như vậy sẽ rất thuận tiện trong tu đạo, dễ dàng tương ưng với các nghĩa lý trong Kinh giáo, dẫn tới là rất dễ để 'Y giáo phụng hành' theo Kinh giáo, mà trong Tịnh Độ Tông thì cái này là quan trọng nhất vậy, tức là có được Tín Nguyện tâm chân thật đầy đủ, rồi chân thật dụng công, chắc chắn cuối đời thành tựu. Cho nên các Ngài hay nói là 'giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận' tức chính là thực hiện những điều này vậy.
Thế còn “cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia”, là sao? Tức là cứ theo thứ tự đó thôi, hễ có "cách vật" [cách xa, trừ khử đi những dục vọng, hành vi ý nghĩ sai quấy, tức tu Thập thiện nghiệp] thì sẽ có "trí tri" [tâm trí sáng suốt, công minh]; rồi một khi "trí tri" rồi thì sẽ có "thành ý, chánh tâm", từ đó "tu thân, tề gia" được tốt đẹp [tức thực hiện tốt những tánh đức trên "hiếu, đễ, trung, tín..."]. Còn như ai có duyên phận hơn nữa thì mở rộng hơn, đi tới "bình thiên hạ" [tức gây ảnh hưởng đến xung quanh, hữu tình, từ gần đến xa], còn không thì "một người được như thế thì cũng đã có lợi ích lớn lao, ai nấy đều như thế sẽ thái bình", chứ chẳng phải cứ 'bao đồng' việc thiên hạ thì mới là tốt đẹp đâu!
Cho nên, để giữ giới cho tốt thì mấu chốt đó chính là gì? Đó chính là "cách vật" [trừ khử vật dục]. Đây cũng chính là nền tảng, gốc rễ trong tu học, cả với Pháp thế gian hay Pháp xuất thế Tịnh Độ tông đều là như vậy cả. Nền tảng, gốc rễ vững chắc thì con đường đạo dài muôn dặm của chúng ta mới được ổn định, bều lâu, ít gặp sóng gió, gập ghềnh, còn không thì dễ bị đứt gãy hay 'tuột xích' lắm, hay nhẹ thì cứ phải 'lên bờ xuống ruộng' suốt vậy, đặt biệt càng về cuối thì sự ảnh hưởng [tích cực, tiêu cực] từ việc giữ gìn giới luật ra sao càng thể hiện rõ ra, tức nhân quả nó càng trổ ra mạnh vậy. Cho nên, nhiều hành giả của Tịnh Độ tông hay bị cái kiến giải này chi phối ảnh hưởng, đó là câu nói 'Một câu A Di Đà Phật là đủ', do đó đâm ra lơ là, xem nhẹ việc gìn giữ giới luật, tu Tịnh nghiệp tam phước này kia [tức Giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận]. Bởi vậy, cái chữ 'đủ' này nguy hiểm lắm đấy, không đùa được đâu, vì sao? Bởi xét về cái Lý trong Pháp môn thì cái 'đủ' kiểu này làm cho không cách gì 'đủ' được [Tín tâm chân thật đầy đủ], còn với các Pháp thế gian trợ duyên trợ hạnh kia thì sẽ bị xem nhẹ, không được coi trọng, không nổ lực thực hành đúng mức, tức không chịu dốc cạn lòng thành để mà thực hiện, cho tròn bổn phận, đạo lý trong thế gian, hay dạng chỉ làm theo kiểu qua loa, chiếu lệ, như thế thì làm sao 'tận hết bổn phận' cho được. Rồi cứ suốt ngày 'bài ca' rằng Buông xả hết đi, một câu A Di Đà Phật là đủ, đến cả người trẻ, thanh niên, vợ chồng con cái đùm đề ra đó hay cha mẹ chưa chịu phát tâm tu... mà cứ suốt ngày 'buông xuống vạn duyên', hay sợ 'xen tạp, gián đoạn' câu Phật hiệu... Thật sự rằng đa phần dạng này chỉ duy trì được một thời gian rồi sau đó cũng 'bức', hay nhẹ cũng thoái thất tâm, không duy trì được lâu đâu, thực tế là như vậy, chúng ta cứ thử kiểm chứng mà xem! Đó là chưa kể hệ lụy đến việc đụng việc lớn việc nhỏ gì trong cuộc sống thì đều lôi câu Phật hiệu ra 'chịu trách nhiệm', nói chung thì mọi thành bại tốt xấu gì gì ra sao thì đều trông cậy vào câu Phật hiệu này cả? Như vậy là đúng hay sai đây? Bởi nếu như thế thì thôi chứ đâu còn là 'niệm Phật chỉ để cầu vãng sanh, không phải cầu phước báu thế gian' nữa, bởi cứ bắt câu Phật hiệu 'phục vụ' hết mục đích này đến lợi ích kia đó thôi. Chưa kể là cái tâm lý cứ nghĩ đến lâm chung mới là quyết định nên bình thời đây nhiều khi phóng túng, xao nhãng việc tu trì, việc giữ gìn giới hạnh này kia, hay không duy trì đạo tâm đạo lực cho nghiêm túc, tinh tấn. Cái này có không? Rất nhiều là đằng khác, nhất là dạng chiến đấu đường dài dễ gì không mắc phải ít nhiều, thậm chí bị sa lầy hay lầm lạc không ra được luôn. Cho nên việc tu trì cho đúng đường đúng lối rất quan trọng, không chỉ ảnh hưởng đến khả năng thành tựu lúc cuối mà là ảnh hưởng xuyên suốt cả quãng đời hành đạo vậy.
Các đoạn còn lại chúng ta cùng đọc và học tập.
Văn Sao Tam Biên, quyển 2
Thư trả lời cư sĩ Lâm Phố
Đại Sư Ấn Quang
