Chánh kinh:
Phật ngữ A Nan:
- Bỉ Cực Lạc giới vô lượng công đức, cụ túc trang nghiêm. Vĩnh vô chúng khổ, chư nạn, ác thú, ma não chi danh.
Phật bảo A Nan:
- Cõi Cực Lạc thế giới công đức vô lượng, trang nghiêm đầy đủ, vĩnh viễn không có các tên gọi các khổ, các nạn, đường ác, ma làm não loạn.
Giải:
(...) Ở đây, những điều như kinh dạy: “Vĩnh vô chúng khổ chư nạn, ác thú, ma não chi danh” (Vĩnh viễn chẳng có danh từ các khổ, các nạn, đường ác, ma não loạn) cũng chính là do sức công đức thành tựu ấy chiêu cảm vậy.
“Chúng khổ”: Khổ (苦) có nghĩa là bức bách não loạn. Sự khổ rất nhiều, trong các kinh luận thường nói ba khổ, tám khổ v.v… Ba khổ là:
1. Khổ khổ: Thân này đã là quả của cái khổ, lại còn thêm bị các nỗi khổ bức bách thân tâm nên khổ càng thêm khổ; vì vậy gọi là “khổ khổ”.
2. Hoại khổ: Thế gian này nào có niềm vui chân thật, nào có sự vui lâu dài, ngay lúc niềm vui tan biến đã không ngăn nổi ưu não nên bảo là “hoại khổ”.
3. Hành khổ: Chẳng khổ, chẳng vui nhưng do niệm niệm lưu chuyển nên bảo là “hành”. Rốt cục cũng biến diệt nên bảo là “hành khổ”.
Cực Lạc vĩnh viễn chẳng có ba thứ khổ trên đây như sách Sớ Sao bảo: “Cõi ấy ly dục thanh tịnh nên không có khổ khổ. Y báo, chánh báo luôn tồn tại bất biến nên không có hoại khổ. Vượt thoát tam giới nên không có hành khổ”.
Tám khổ chính là những nỗi khổ của thế nhân như sanh, lão, bệnh, tử, yêu thương mà bị chia lìa, thù ghét cứ phải gặp mặt, cầu không được toại ý và năm ấm lừng lẫy:
1. Sanh trong thai ngục (trong thai chật hẹp như trong ngục nên gọi là “thai ngục”) là “sanh khổ”.
2. Già sợ run rẩy là “lão khổ”.
3. Bị bệnh đau đớn là “bệnh khổ”.
4. Khi chết đau buồn nỗi khổ phân tán (Tứ Đại nơi thân mình chia lìa, chia ly cùng quyến thuộc hiện đời), đó là “tử khổ”.
5. Yêu thương luôn muốn hòa hợp, ghét chia ly, nhưng luôn thường mâu thuẫn, chia cách với người thân, chẳng được ở chung với nhau. Ðấy là “ái biệt ly khổ”.
6. Oán ghét thì muốn trốn đi, sợ phải chạm mặt nhau, nhưng luôn đụng phải kẻ oán cừu, căm ghét. Muốn mong xa lánh lại cứ phải chung đụng. Ðấy gọi là “oán tắng hội khổ”.
7. Cầu mong thì chỉ muốn đạt được, sợ mất mát, nhưng hết thảy sự vật trong thế gian hễ tâm yêu thích thì chẳng cầu được. Ðấy là “cầu bất đắc khổ”.
8. Ngũ ấm xí thịnh khổ được sách Viên Trung Sao giảng như sau: “Ngũ Ấm là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Ấm có nghĩa là ngăn che, tức là chúng ngăn che chẳng cho chân tánh phát hiện. Thịnh có nghĩa là to lớn, lừng lẫy. Do các nỗi khổ: sanh, già, bệnh, chết… vừa nói ở trên tụ tập lại nên bảo là ngũ ấm xí thịnh khổ”.
Tám thứ khổ này cùng nung đốt thế nhân, nhưng cõi Cực Lạc vĩnh viễn chẳng có các nỗi khổ đó.
Sách Sớ Sao bảo:
“Cõi kia liên hoa hóa sanh nên không có sanh khổ. Chẳng có nóng lạnh đắp đổi, thân chẳng bị phần đoạn (phần đoạn sanh tử) nên không có bệnh khổ. Thọ mạng vô lượng nên không có tử khổ. Không có cha mẹ, vợ con nên không có ái biệt ly khổ. Các thượng thiện nhân cùng ở chung một nơi nên không có oán tắng hội khổ. Muốn gì liền tự nhiên có ngay nên không có cầu bất đắc khổ. Quán chiếu không tịch nên không có ngũ ấm xí thịnh khổ”.
Chữ “chư nạn” chỉ tám nạn, tức là những điều gây chướng ngại cho việc gặp Phật, nghe pháp. Tám nạn còn gọi là “bát vô hạ”, nghĩa là tám điều khiến ta không được nhàn hạ để tu đạo nghiệp. Sách Viên Trung Sao bảo tám nạn là:
“Một là địa ngục nạn: Trong địa ngục đêm dài tăm tối, chịu khổ không ngớt, ngăn lấp việc gặp Phật nghe pháp, nên gọi là Nạn.
Hai là súc sanh nạn: Trong đường súc sanh chịu khổ vô cùng, ngăn lấp việc gặp Phật nghe pháp nên gọi là Nạn.
Ba là ngạ quỷ nạn: Trong đường ngạ quỷ chịu khổ vô lượng, ngăn trở việc gặp Phật nghe pháp nên gọi là Nạn.
Bốn là Trường Thọ Thiên nạn, nghĩa là: Sống trong cõi trời ấy thọ đến năm trăm kiếp; đó chính là cõi trời Vô Tưởng thuộc tầng trời Ðệ Tứ Thiền của Sắc Giới. Cõi ấy mang tên Vô Tưởng vì tâm thức chẳng khởi lên, giống như cá nằm trong băng, như sâu nằm trong kén. Ngoại đạo tu hành đa phần sanh lên cõi trời này. Do chướng ngăn gặp Phật nghe pháp nên gọi là Nạn.
Năm là Bắc Uất Ðan Việt nạn: Uất Ðan Việt (Uttarakuru) là tiếng Phạn, Hán dịch là Thắng Xứ, nghĩa là cõi ấy cảm báo thù thắng hơn cả ba châu Ðông, Tây, Nam. Người cõi ấy thọ một ngàn năm, không hề chết yểu. Do ham vui nên chẳng thể nhận lãnh sự giáo hóa. Vì thế, thánh nhân chẳng giáng sanh trong cõi ấy nên chẳng được gặp Phật nghe pháp; bởi vậy gọi là Nạn.
Sáu là manh lung ám á nạn, nghĩa là: Những kẻ ấy sanh tuy sanh chính giữa đất nước, nhưng do nghiệp chướng sâu nặng nên mù, điếc, câm, ngọng, các căn chẳng đủ, dẫu Phật xuất thế vẫn chẳng thể thấy Phật. Dù [có người] giảng đại pháp vẫn chẳng nghe nổi, nên gọi là Nạn.
Bảy là thế trí biện thông nạn, nghĩa là: Người trong thế gian tà trí sắc sảo, miệt mài ham mê tập tành kinh sách ngoại đạo, chẳng tin chánh pháp xuất thế. Vì vậy, gọi là Nạn.
Tám là sanh Phật tiền Phật hậu nạn, nghĩa là: Khi Phật xuất hiện trong đời làm bậc đại đạo sư khiến cho chúng sanh thoát ly cái khổ sanh tử, hưởng vui Niết Bàn; ai có duyên thì được gặp gỡ, còn những kẻ sanh ra trước hay sau thời Phật xuất thế thì do nghiệp nặng duyên mỏng nên đã chẳng được thấy Phật, lại còn chẳng được nghe pháp. Do vậy, gọi việc sanh ra trước Phật hay sau Phật là Nạn”.
Sách nói thêm: “Tám điều nạn ấy tuy là cảm lấy quả báo khổ, vui sai khác nhưng đều do chẳng được thấy Phật, chẳng nghe chánh pháp nên gọi chung là Nạn”. (...)
“Ma não”: “Ma” (魔) là cách gọi tắt chữ Phạn “Ma La” (Māra), dịch nghĩa là Năng Ðoạt Mạng, Chướng Ngại, Nhiễu Loạn, Phá Hoại v.v… Sách Nghĩa Lâm Chương, quyển sáu giảng: “Ma, tiếng Phạn là Ma La, Hán dịch là Nhiễu Loạn, Chướng Ngại, Phá Hoại. Do chúng nhiễu loạn thân tâm, chướng ngại thiện pháp, phá hoại sự tốt đẹp bậc nhất nên gọi là Ma La. Cõi này (Trung Hoa) gọi tắt là Ma”. Sách Huệ Lâm Âm Nghĩa, quyển mười hai cũng giảng: “Ma La, Hán dịch là Lực, tức là tên khác của ma vương Ba Tuần trong cõi Tha Hóa Tự Tại. Loài quỷ thần này có đại thần lực có thể gây chướng nạn cho những người tu pháp xuất thế nên gọi là Ma La”.
Sách Trí Ðộ Luận lại bảo có bốn loại ma:
- Một là Phiền Não Ma: Các phiền não như tham, sân, si… não hại thân tâm nên gọi là Ma.
- Hai là Ấm Ma, tức Ngũ Ấm: Sắc, Thọ… sanh ra các thứ khổ não nên gọi là Ma.
- Ba là Tử Ma: Cái chết đoạt mất mạng căn của con người nên gọi là Ma.
- Bốn là Tha Hóa Tự Tại Thiên Tử Ma: Ma vương này hay hại sự lành của người khác nên gọi là Ma.
Trong bốn loại này, loại thứ tư mới chính là ma thật sự, còn ba loại ma kia do gây chướng tương tự như ma nên cũng gọi là Ma.
“Ma não” (魔惱) tức là ma khiến cho thân tâm bị não hại. Hơn nữa, phiền não cũng là ma. Thế giới Cực Lạc vĩnh viễn chẳng có ma làm não loạn là do bởi toàn thể cõi Cực Lạc là một thanh tịnh cú, lại được trang nghiêm bởi “trụ Chân Thật Huệ”, khai thị bởi Chân Thật Tế nên có thể ban cho “cái lợi chân thật”. (...)
Ảnh minh họa: "Các pháp như thế ấy, chúng sanh ở nước kia nghe âm thanh này rồi, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Này Xá-lợi-phất, ông chớ cho chim này thiệt là do tội báo sanh ra. Tại sao thế? Vì cõi nước của Phật kia không có ba ác đạo. Này Xá-lợi-phất, cõi nước của Phật kia còn không có tên của ác đạo, huống chi là có thật. Các thứ chim ấy đều là do Phật A Di Ðà muốn cho tiếng Pháp âm truyền khắp mà biến hóa ra như thế."
(Kinh A Di Đà bằng tranh)
Chúng ta trở lại với Phẩm thứ 11 "Quốc Giới Nghiêm Tịnh" và tiếp tục ở đoạn Kinh là "Vĩnh vô chúng khổ, chư nạn, ác thú, ma não chi danh" ["vĩnh viễn không có các tên gọi các khổ, các nạn, đường ác, ma làm não loạn"]. Chúng ta đọc đoạn trích lục bên trên hay nguyên văn đầy đủ trong sách Chú Giải để xem các Ngài chú giải, liễu nghĩa các văn tự ở đoạn Kinh văn này. Đây là những nội dung, kiến thức có liên quan khá mật thiết với chúng sanh khổ nạn trong Lục đạo luân hồi này và dĩ nhiên có chúng ta trong đó vậy. Phật dạy "Lấy khổ làm thầy", cho nên chúng ta cần hiểu rõ những nổi khổ [mà chúng ta đang thọ nhận đây] là như thế nào, so với ở những cảnh giới hoàn toàn không có [những điều ấy], như Thế Giới Cực Lạc chẳng hạn, để 'mở mang tầm mắt' chứ cứ đời này qua kiếp nọ ở mãi trong [ngục tối] ấy rồi đôi lúc hưởng được chút niềm vui trong chốc lát gì đó lại cứ tưởng đâu đây là 'thiên đường' [hay 'Cực Lạc là đây'] rồi lại tham đắm, chẳng muốn lìa thoát nữa. Thật ra thì chúng ta sống ở cõi này đây là đang chịu nỗi khổ tứ bề bao vây, chứ chẳng sướng ích gì đâu. Nội mang cái thân giả tạm này đã là gốc của những nổi khổ, bởi nó chính là do nghiệp [thiện - ác đan xen] của chúng ta mà 'cấu thành' ra nó vậy. Mà đã là nghiệp thì hoàn toàn là giả tạm, không thật, bởi thế nên nó mới không thể 'tồn tại' được lâu, cho nên con người ta mới có Sanh, Già, Bệnh, Chết, giống như Thế giới có Thành, Trụ, Hoại, Không [ví dụ như Trái Đất này vậy]. Đó chính là sanh tử luân hồi mà chúng sanh đây phải thọ nhận, cứ trôi lăn mãi miết từ đời này qua kiếp nọ, bất tận, không biết đến bao giờ nữa. Cho nên chúng ta hay dùng từ 'vô thỉ kiếp đến nay', tức là quá khứ là bất tận [không biết khởi nguồn từ đâu] và rằng, tương lai cũng hệt như thế. Nói chung là không thể lấy toán số, thí dụ ở thế gian mà suy tính nổi! Bởi vậy, muốn 'cắt đứt' dòng sanh tử vạn dặm này chẳng phải là chuyện dễ, giỡn chơi được, mà phải nghiêm túc, chân thật nghe theo lời dạy của Phật trong Kinh mà Y giáo phụng hành theo mới được. Bởi Đức Phật [Thích Ca] nói riêng và Chư Phật khắp thập phương nói chung đều muốn tất cả chúng sanh đang chìm đắm trong khổ não kia làm được việc này [tức thoát lìa sanh tử khổ đau] rồi tiến lên con đường để viên mãn Phật quả.
Cụm từ "ma não", tức ma làm não hại, đặc biệt trong thời Mạt pháp này ma sự rất lẫy lừng, càng vào sâu thời Mạt thì ma chướng càng 'hoạt động' mãnh liệt. Vì sao vậy? Đơn giản là vì Chánh Pháp ngày càng bị mai một theo thời gian, giống như càng xa nguồn sáng thì ánh sáng càng yết ớt [và dĩ nhiên bóng tối càng bủa vây]. Cho nên 'pháp nhược' thì 'ma cường' vậy, đây chính là bản chất căn bản của thời Mạt pháp, cụ thể là thời đại ngày nay của chúng ta và cả sau này nữa. Vậy ma sự thường làm não hại những ai đây? Câu trả lời là, tất cả những ai đang [tu tập] mong cầu giải thoát, mà thời nay chủ yếu là những hành giả Tịnh Độ như chúng ta đây. Chứ ma sự lại không gây hại những hành nhân tu tập các Pháp khác [cầu phước báu nhân thiên]. Đây chính là điểm khác biệt lớn trong vấn đề tu tập vậy. Cho nên nhiều người ban đầu biết đến Phật Pháp, chỉ tu tập hành trì cầu phước báo thế gian thì lại rất bình yên, thuận lợi, đến khi bắt gặp nhân duyên Tịnh Độ cầu giải thoát cái là bắt đầu 'có chuyện'. Đó chẳng phải do họ tu 'giỏi, dở' gì đâu, mà chính là tâm cầu giải thoát chiêu cảm lấy ma sự vậy. Cho nên, phần chú giải bên trên có đoạn là: Sách Huệ Lâm Âm Nghĩa, quyển mười hai cũng giảng: “Ma La, Hán dịch là Lực, tức là tên khác của ma vương Ba Tuần trong cõi Tha Hóa Tự Tại. Loài quỷ thần này có đại thần lực có thể gây chướng nạn cho những người tu pháp xuất thế nên gọi là Ma La”.
Nhắc đến Ma vương thì thôi... [miễn bàn]! Thần lực [và trí huệ] của các vị ấy cao siêu, sức mạnh thật là kinh khủng! Phàm phu chúng ta đây, chỉ là như cái 'khảy ngón tay' của các vị ấy mà thôi. Nhưng các vị ấy thường không ra tay kiểu lặt nhặt, nhỏ lẻ làm gì, mà phần nhiều nhắm vào những tổ chức, cộng đồng lớn, có sức ảnh hưởng mạnh đến chúng sanh các nơi. Chứ còn cá nhân tu tập hay những tổ chức nhỏ lẻ thì các 'Ngài' ấy chẳng thèm để mắt đến [có thể gọi là biết nhưng 'cho qua']. Cho nên các Ngài [Chư Tổ Sư] mới khuyên nhủ rằng thời nay đừng có ham gầy dựng cho to lớn, vĩ đại, đông đúc, mà chỉ nên 'đánh lẻ' chừng vài chục người đổ lại thôi. Mục đích chính là để tránh sự 'dòm ngó' của các vị ấy vậy, các Ngài đã nhìn thấy hết, nên bảo ban lại cho chúng ta như thế. Thật ra, nếu tu tập tốt, đúng như lý như pháp thì chẳng ai não hại được ta, bởi được thần lực của Chư Phật, Bồ Tát, Thiện thần hộ pháp gia trì che chở cho. Nhưng hiềm nỗi chúng sanh thời nay nghiệp nặng, tập khí sâu dày, cạm bẫy giăng giăng muôn nơi, đâu dễ gì chẳng 'sa lưới' ít nhiều. Thật ra đó chính là do ma vương đã giăng ra sẳn để chờ đợi và 'mai phục'. Cho nên, tốt nhất là hãy làm những chú 'cá trắng, cá nhỏ' thôi, sẽ thoát được lưới, đừng có ham hố làm 'cá lớn' dễ bị mắc lưới lắm! Một khi được về trên ấy, mặc áo giáp xuống thì sao cũng được. Thật ra cũng không khó để nhận ra những cái 'lưới' mà các vị ấy hay giăng ra. Bởi các vị ấy là những người cai quản cõi Dục giới này, nên tất cả những thứ thuộc về Ngũ dục đều nằm dưới sự cai quản của các vị ấy [Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy]. Tu hành chỉ cần chúng ta buông bỏ được những thứ này, đừng tham luyến đến chúng là các vị ấy không cách gì 'bắt' được ta. Dĩ nhiên, phàm phu chúng ta đang sống trong cõi Dục, cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, mọi thứ, làm sao không 'đụng' vô những thứ đó cho được, vấn đề là chúng ta hãy biết đủ, đừng nên tham đắm, chạy theo, Phật dạy rằng sống "thiểu dục tri túc" là vậy. Chứ còn một mặt thì tu tập hành trì cầu giải thoát, một mặt lại tham đắm vào những thứ đó thì thôi... xác định, bị ma vương 'dắt mũi', không cách gì thoát ra được. Kết quả là sao? Chánh pháp thì ngày càng rời xa, Tam đồ, Địa ngục thì đang đến gần vậy. Cho nên trên đường hành đạo, càng buông bỏ những 'tham sân si', 'ngũ dục lục trần'... thì con đường đạo càng được bằng phẳng, hanh thông, ít chướng nạn [do ma sự] vậy. Những cái ấy đều nằm trong Tịnh Nghiệp Tam Phước [ở phước thứ nhất] cả vậy.
Chúng ta dành chút thời gian để tiếp tục nói về 'công việc thường ngày', đó chính là việc gầy dựng Tín Nguyện tâm cho chân thật đầy đủ, ngõ hầu lâm chung tất cả đều được Phật lai nghinh tiếp dẫn. Thật sự rằng, nếu nói thẳng ngay rằng "Mười niệm ắt vãng sanh" thì chắc khó ai có thể Tín tâm chân thật nổi, tức "chí tâm tin ưa, bất sanh nghi hoặc" nổi, mà nói rằng 'lâm chung niệm mười niệm ắt vãng sanh' thì dễ phát khởi tín tâm hơn, nhiều người tin hơn. Cho nên, để gầy dựng Tín tâm, chúng ta hãy bắt đầu từ những cái dễ trước. Rằng Kinh nói "nãi chí thập niệm [dẫu chỉ mười niệm]", dành cho hạng bét [lúc lâm chung], cũng được Phật rước. Cái này thì rõ ràng, chân thật, dễ hình dung. Cho nên chúng ta phải tin chắc chẳng nghi điều này [bất sanh nghi hoặc]. Kế đến, do Phật đã thành Phật nên Pháp Phật là bình đẳng, hạng bét như thế thì những hạng khác [điều kiện] cũng như vậy thôi, chính ta đây cũng như vậy, không khác! Cho nên chắc chắn Phật phải rước ta, không thể khác được! Bởi nếu Phật không rước ta thì đâm ra Pháp Phật bất bình đẳng chăng? Có sai biệt chăng? Không bao giờ! Cho nên nhất định Phật phải rước ta! Đây là cách chúng ta đi từ dễ đến khó vậy, tất cả đều y cứ từ Kinh giáo [nương tựa Kinh giáo, Bổn Nguyện], rằng "nãi chí thập niệm", để phát khởi Tín tâm chân thật, rồi dùng tâm lực ấy chân thật hành trì dụng công, gìn giữ đến cuối đời vậy. Chứ còn chẳng nương Kinh giáo [Bổn Nguyện], cứ nói chung chung rằng 'niệm Phật nhất định vãng sanh' thì kiểu gì một thời gian sau [tín tâm ấy] cũng mai một dần, rồi đến lúc nào đó cũng, thì là rằng, 'lâm chung phải niệm được thì Phật mới lai nghinh', tức phải cậy vào Pháp Hộ Niệm lúc cuối vậy. Cho nên các Ngài mới khuyên dạy rằng phải Y giáo phụng hành [theo Kinh giáo], phải nương tựa vào Kinh Giáo [Bổn Nguyện] là vậy.
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ
Phẩm 11. Quốc Giới Nghiêm Tịnh (trích, lục)
Ngài Hoàng Niệm Tổ