Vĩnh Viễn Nhổ Được Cái Gốc Sanh Tử, Chẳng Còn Cái Nạn Khổ Não, Thọ Ngàn Vạn Kiếp, Tự Tại Tùy Ý

NPSTD7

 

Vĩnh Viễn Nhổ Được Cái Gốc Sanh Tử, Chẳng Còn Cái Nạn Khổ Não, Thọ Ngàn Vạn Kiếp, Tự Tại Tùy Ý

Chánh kinh:
Nhân năng tự độ, chuyển tương chửng tế. Chí tâm cầu nguyện, tích lũy thiện bổn, tuy nhất thế tinh tấn cần khổ, tu du gian nhĩ. Hậu sanh Vô Lượng Thọ quốc, khoái lạc vô cực, vĩnh bạt sanh tử chi bổn, vô phục khổ não chi hoạn. Thọ thiên vạn kiếp, tự tại tùy ý.
Người [ấy đã có thể] tự độ, [lại còn] lần lượt cứu vớt người khác. Chí tâm cầu nguyện, tích lũy cội lành. Tuy một đời tinh tấn, siêng, khổ cũng chỉ như khoảnh khắc mà thôi. Thân sau sanh vào cõi Vô Lượng Thọ, khoái lạc vô cực! Vĩnh viễn nhổ được cái gốc sanh tử, chẳng còn cái nạn khổ não, thọ ngàn vạn kiếp tự tại tùy ý.
Giải:

Ðoạn trên đã giảng rõ sanh tử lưu chuyển ưu khổ chẳng ngớt, khuyên ta phải xuất ly. Ðấy là nhàm chán Sa Bà. Còn đoạn này lại khuyên cầu sanh Tịnh Ðộ, chính là ham cầu Cực Lạc.
Sách Di Ðà Yếu Giải lấy “chán lìa Sa Bà, vui cầu Cực Lạc” làm nguyện, lại lấy “tín nguyện trì danh” làm “cái nhân chân thật của Nhất Thừa”. Bởi đó, ta thấy rằng: Đức Thế Tôn khuyên dụ chính là vì vãng sanh rất thiết yếu.
Câu “nhân năng tự độ” (người đã có thể tự độ) nghĩa là người đã độ được chính cái thân mình. Ðây là lời tiếp nối ý câu “tẩy trừ tâm cấu, biểu lý tương ứng” của đoạn trên. Ðó chính là hạnh tự lợi.
Tiếp đấy, “chuyển tương chửng tế” (lần lượt cứu vớt người khác) là hạnh lợi tha. Ðây chính là điểm thứ hai trong lời khai thị của Phật. “Chửng” (拯) là cứu độ, tức là lần lượt cứu độ những người khác, hay nói cách khác là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”.
Phát được cái tâm to lớn “tự giác, giác tha” niệm danh hiệu Phật thì mới khế hợp được tông thú của bản kinh này “phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm”.
Ðã phát đại tâm thì phải dùng tâm chí thành “tích lũy thiện bổn” (tích lũy cội lành) để cầu được diệu quả của bổn nguyện. “Thiện bổn” có nghĩa như “thiện căn”. Kinh Thắng Man, quyển thượng dạy: “Thiện bổn, bổn diệc nhân giả. Dục dĩ thử thiện vi Bồ Đề căn, cố danh vi bổn” (Thiện bổn, bổn cũng là nhân. Muốn dùng điều thiện ấy để làm gốc Bồ Ðề nên gọi là Bổn).
Sách Hội Sớ lại viết: “Cầu nguyện là cái tâm nguyện được vãng sanh. ‘Thiện bổn’ là tên chung của các điều lành, mà cũng chỉ riêng việc xưng danh niệm Phật”, bởi lẽ, xưng danh niệm Phật chính là cội lành của việc vãng sanh Cực Lạc. “Tích lũy thiện bổn” chính là một dạ chuyên niệm.
Tiếp đó, đức Thích Tôn nhắc lại sự thù thắng nhiệm mầu của cõi Cực Lạc, khuyến dụ vãng sanh. “Tu du” (khoảnh khắc) là một phần bốn mươi tám của một phút, tức là một khoảng thời gian rất nhỏ. Phật khuyên người đời: Một đời siêng năng vất vả cũng chỉ như trong khoảnh khắc. Thân sau sanh về Cực Lạc thì cái vui ấy không cùng tận. Sự vui mầu nhiệm vô biên vượt trỗi mười phương, chẳng hề chấm dứt nên bảo là “vô cực”.
Trong tác phẩm Khuyến Tâm Vãng Sanh Luận của sa-môn Nhẫn Không thuộc tông Thiên Thai có câu: “Một trận vinh hoa đời này kết thành khổ quả ức kiếp. Ðời này siêng tu trong khoảnh khắc, nở nhụy giác tam minh”. Ấy là nhân nhỏ quả to, thọ báo dài lâu. Hễ được vãng sanh thì như kinh dạy: “Vĩnh bạt sanh tử chi bổn, vô phục khổ não chi hoạn, thọ thiên vạn kiếp, tự tại tùy ý” (Vĩnh viễn nhổ dứt cái gốc sanh tử, chẳng còn cái nạn khổ não, thọ ngàn vạn kiếp tự tại tùy ý).
Ngài Linh Chi đã giảng về cõi Cực Lạc như sau:
“Tịnh độ Di Ðà cảnh giới lạ lùng tuyệt diệu. Thánh hiền cùng hội, nghe pháp ngộ đạo, thọ mạng vĩnh cửu, bất thoái Bồ Ðề, chẳng còn có nỗi vui nào khác hơn được niềm vui này. Chỉ không có cái khổ vô thường đã đáng vui rồi, huống là còn có các sự thù thắng, những sự vui ấy chẳng cùng tận!”. Bởi thế, Phật mới khuyên chúng sanh cầu sanh về đó.

 

TGCL111

Ảnh minh họa: Thế giới Cực Lạc

Câu văn: Sách Di Ðà Yếu Giải lấy “chán lìa Sa Bà, vui cầu Cực Lạc” làm nguyện, lại lấy “tín nguyện trì danh” làm “cái nhân chân thật của Nhất Thừa”Bởi đó, ta thấy rằng: Đức Thế Tôn khuyên dụ chính là vì vãng sanh rất thiết yếu.

Lấy “tín nguyện trì danh” làm "cái nhân chân thật", có nhân mới có quả được, không gieo nhân thì không bao giờ có quả được. Hơn nữa, cái nhân này là cái nhân chân thật, để sanh cái quả chân thật. Thế nào là cái quả chân thật? Một, là chắc chắn sẽ thành tựu [nếu có đầy đủ nhân chân thật kia] ở ngay một đời hiện tại này, bởi nếu hẹn đời sau thì không còn là chân thật nữa, bởi sau khi thọ sanh sẽ chẳng thể đoán định được nữa, chẳng biết sẽ đi đâu về đâu. Hai, có được lợi ích chân thật [không hư giả, phải chắc chắn], đó chính là sẽ được vãng sanh chắc chắn viên thành Phật quả [không thọ sanh tử, không thoái chuyển nữa].

Đoạn tiếp theo: Câu “nhân năng tự độ” (người đã có thể tự độ) nghĩa là người đã độ được chính cái thân mình. Ðây là lời tiếp nối ý câu “tẩy trừ tâm cấu, biểu lý tương ứng” của đoạn trên. Ðó chính là hạnh tự lợi. Tiếp đấy, “chuyển tương chửng tế” (lần lượt cứu vớt người khác) là hạnh lợi tha. Ðây chính là điểm thứ hai trong lời khai thị của Phật. “Chửng” () là cứu độ, tức là lần lượt cứu độ những người khác, hay nói cách khác là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”.

Bổn Nguyện được phát ra vì hết thảy chúng sanh, chúng ta nương nhờ Bổn Nguyện này mà tin tưởng, hành trì được có cơ hội thành tựu. Cho nên [một khi] chúng ta được thoát khổ thì cũng phải triển chuyển không dứt, tiếp tục dìu dắt, cứu vớt những chúng sanh khác cùng thoát khổ. Ấy chính là Bồ Đề tâm, tâm tự lợi lợi tha, không thể thiếu. Cùng với đó, trên bước đường hành đạo, chúng ta cũng phải phát khởi cái tâm này, ngõ hầu việc mình việc người đều dễ dàng thành tựu hơn, cao sâu hơn. Dĩ nhiên, chỉ việc Tín Nguyện cầu sanh về cõi ấy để thành tựu quả vị Phật để cứu độ vô lượng vô biên chúng sanh thoát khổ đã là tâm đại Bồ Đề rồi [vô thượng Bồ Đề], một khi tâm này phát ra [chân thật] thì ắt không thể thiếu tâm tự lợi lợi tha kia. Chúng ta muốn vãng sanh thì bắt buộc phải có cái tâm này [một cách chân thật, đầy đủ], bởi để thành tựu đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác [vãng sanh thành Phật] ắt phải dùng cái tâm "Vô Thượng Bồ Đề" ấy thì mới tương ưng. Chứ còn chỉ phát khởi những cái tâm tự lợi lợi tha nhỏ lẻ, cục bộ, thế gian... thôi mà thiếu cái đại tâm kia thì cũng không ăn thua, chưa thể đủ, chưa thể tương xứng được. Coi vậy chứ đây là việc rất nhiều người mắc phải. Sanh tử đại sự, chúng ta cần phải lưu tâm!

Câu văn tiếp theo: Sách Hội Sớ lại viết: “Cầu nguyện là cái tâm nguyện được vãng sanh. ‘Thiện bổn’ là tên chung của các điều lành, mà cũng chỉ riêng việc xưng danh niệm Phật”, bởi lẽ, xưng danh niệm Phật chính là cội lành của việc vãng sanh Cực Lạc. “Tích lũy thiện bổn” chính là một dạ chuyên niệm.

Các Ngài dù ở nơi đâu thời nào, luôn nhắc nhở chúng ta điều này: "xưng danh niệm Phật" chính là cội lành, điều lành bậc nhất, vô thượng công đức... Muốn xuất thế gian, đi làm Phật thì chắc chắc không thể thiếu điều này, tích lũy "vô thượng công đức" [để thành tựu Vô Thượng Đạo], chứ còn dùng những hữu thượng công đức không thì cũng tốt đấy nhưng làm sao đủ được, duy chỉ có niệm Phật là vô thượng công đức mà thôi, dù chỉ niệm một câu cũng là một "Vô Thượng công đức" [vượt trỗi những công đức khác]. Thế nên, các Ngài nói, “tích lũy thiện bổn” chính là một dạ chuyên niệm. Vì vậy, tông chỉ tông yếu của Pháp môn "Tín Nguyện, niệm Phật" cầu sanh Tây Phương là đầy đủ trọn vẹn chẳng còn thiếu sót vậy.

Đoạn cuối, Đức Phật một lần nữa Ngài nhắc lại sự thù thắng không thể nghĩ bàn của Thế Giới Cực Lạc, giúp khuyến dụ chúng sanh hãy nổ lực tinh tấn tu tập mà sanh về, chớ để chậm trễ, luống uổng qua một đời tu hành này. "Tuy một đời tinh tấn, siêng, khổ cũng chỉ như khoảnh khắc mà thôi". Dưới con mắt Phật nhãn của Ngài thì nhìn cuộc đời này [cùng sự siêng, khổ] chỉ như một khoảnh khắc mà thôi. So với cái gì? So với biển sinh tử mênh mông [trầm luân đang phải chịu đựng nơi đây], so với "thọ ngàn vạn kiếp, tự tại tùy ý" nơi cõi kia. Pháp môn thật là vi diệu, Phật nói "Thân sau sanh vào cõi Vô Lượng Thọ, khoái lạc vô cực!". Chúng ta phải cố gắng học tập, vâng lời Phật dạy.

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 34. Tâm Đắc Khai Minh

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Các Bài Pháp Nổi Bật

"Tự Mình Chẳng Về, Về Liền Được; Gió Trăng Quê Cũ Há Ai Giành?"

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh
    (năm Dân Quốc 22 - 1933)

    Đã ăn chay trường niệm Phật, [vẫn cần] hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể...
    Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp?

  • Quanh Năm Niệm Phật

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao

    Nhận được thư ông từ ba hôm trước, biết lệnh lang là Hà Sanh đã niệm Phật vãng sanh. Tuy về Thế Đế, tựa hồ [đó là] chuyện bất hạnh, nhưng vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao. 

  • Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

  • Mô tả

    Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

    1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.

  • Chứng Bất Thoái Ngay Trong Hiện Đời

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Pháp Môn Vừa Cực Khó Vừa Cực Dễ

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh

    Ông đã biết lợi ích của việc niệm Phật thì từ rày hãy nên gắng công hơn để tự được nhất tâm. Nhưng một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh, chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực để vãng sanh.

  • Đắc Đà-Ra-Ni

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Chiếu Tột Mười Phương

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Hễ Có Tín Nguyện Thì Không Một Ai Chẳng Được Thấm Nhuần, Viên Đốn Thẳng Chóng

  • Mô tả

    Luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu

    Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo đó thôi! Nhưng vì chúng sanh căn cơ bất nhất, khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp diệu minh, nếu không phải là người túc căn thành thục lại muốn ngay trong một đời này hoàn thành thì thật là hiếm có mấy ai.