Vô Lượng Thọ Phật Cũng Có Hiệu Là Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Ðẳng Quang Phật...

NPSTD7

 

Vô Lượng Thọ Phật Cũng Có Hiệu Là Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Ðẳng Quang Phật...

Chánh kinh:
Thị cố Vô Lượng Thọ Phật, diệc hiệu Vô Lượng Quang Phật, diệc hiệu Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Ðẳng Quang Phật, diệc hiệu Trí Huệ Quang, Thường Chiếu Quang, Thanh Tịnh Quang, Hoan Hỷ Quang, Giải Thoát Quang, An Ổn Quang, Siêu Nhật Nguyệt Quang, Bất Tư Nghị Quang.
Do đó, Vô Lượng Thọ Phật cũng có hiệu là Vô Lượng Quang Phật, cũng gọi là Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Ðẳng Quang Phật, cũng hiệu là Trí Huệ Quang, Thường Chiếu Quang, Thanh Tịnh Quang, Hoan Hỷ Quang, Giải Thoát Quang, An Ổn Quang, Siêu Nhật Nguyệt Quang, Bất Tư Nghị Quang.
Giải:
Ðoạn này trình bày điểm chính thứ ba của phẩm này: Mười hai danh hiệu quang minh thù thắng. Mười hai thứ quang minh ấy được gọi là Thập Nhị Quang Phật, đều là những danh hiệu khác của Vô Lượng Thọ Phật, cũng chính là Quả Giác của ngài Pháp Tạng khi đã thành Phật.

Bản Ðường dịch lại ghi mười lăm danh hiệu quang minh, bản Tống dịch ghi mười ba thứ quang minh, chẳng qua là do tách ra hay gộp lại nên thành sai khác đó thôi!
Trong Tán A Di Ðà Phật Kệ, Ðàm Loan đại sư đã viết về Vô Lượng Quang Phật như sau: “Trí huệ quang minh bất khả lượng; cố Phật hựu hiệu Vô Lượng Quang. Hữu lượng chư tướng mông Phật hiểu, thị cố khể thủ Chân Thật Minh” (Trí huệ quang minh chẳng thể lường; nên Phật lại có hiệu là Vô Lượng Quang. Các tướng hữu lượng nhờ quang minh chiếu nên được hiểu; vì vậy đảnh lễ đấng Chân Thật Minh).
Sách Luận Chú viết: “Nếu gặp được quang minh của A Di Ðà Phật chiếu đến thì sẽ giải thoát các sự ràng buộc nơi ý nghiệp, vào nhà Như Lai, rốt ráo đắc ý nghiệp bình đẳng”. Ðấy chính là ý nghĩa của câu “nhờ quang minh chiếu nên được hiểu”.
Vô Biên Quang Phật: Tán A Di Ðà Phật Kệ viết: “Giải thoát quang luân vô hạn tế, cố Phật hựu hiệu Vô Biên Quang, mông quang xúc giả ly hữu vô, thị cố khể thủ Bình Đẳng Giác” (Vầng ánh sáng giải thoát không ngằn mé, nên Phật lại có hiệu là Vô Biên Quang; kẻ được quang chiếu soi bèn lìa hữu, vô. Vì vậy, kính lễ đấng Bình Ðẳng Giác).
Câu kệ sau cùng gọi ngay Phật là Bình Ðẳng Giác (Bình Ðẳng Giác cũng chính là một thánh hiệu của Phật Di Ðà) chỉ ngay vào Ðệ Nhất Nghĩa Ðế, bình đẳng rốt ráo, vạn pháp hệt như nhau. Lời tán dương này của ngài Ðàm Loan quả đã phơi bày rành rành ý nghĩa sâu xa của Phật hiệu Vô Biên Quang. Ðấy mới đúng là tán Phật.
Chữ “Vô Ðẳng Quang Phật” trích từ bản Ðường dịch và Tống dịch, bản Ngụy dịch ghi là Vô Ðối Quang Phật; ngài Tịnh Ảnh bảo: “Phật quang không gì đương cự nổi nên gọi là Vô Ðối”. Ngài Cảnh Hưng bảo: “Bồ Tát chẳng thể bằng [Phật] nên gọi là Vô Ðối”. Ngài Ðàm Loan khen ngợi danh hiệu này như sau: “Thanh tịnh quang minh vô hữu đối, cố Phật hựu hiệu Vô Đối Quang” (Thanh tịnh quang minh không ai đương cự được, vì thế Phật hiệu là Vô Ðối Quang).
Vô Ðối đồng nghĩa với Vô Ðẳng (không gì bằng được); không có gì sánh bằng nổi chính là dứt bặt đối đãi. Câu kinh Thủ Lăng Nghiêm: “Ngã chân Văn Thù, vô thị Văn Thù” (Ta thật là Văn Thù, nhưng không có gì là Văn Thù) đã thể hiện ý nghĩa không gì so sánh, không gì bằng được, dứt tuyệt đối đãi: Nếu ta là Văn Thù thì hóa ra có đến hai Văn Thù. Như vậy là có đối đãi, so sánh. Do đó, ý nghĩa của danh hiệu Vô Ðẳng Quang Phật rất sâu xa vậy.
Chữ “Thường Chiếu Quang” lấy từ bản Tống dịch. Thường Tịch Quang, tịch mà thường chiếu nên gọi là Thường Chiếu Quang; bản Ngụy dịch ghi là Vô Ðoạn Quang. Ngài Tịnh Ảnh bảo: “Thường chiếu chẳng dứt nên gọi là Bất Ðoạn Quang”, ngài Cảnh Hưng giảng: “Thường quang của Phật luôn chiếu soi làm lợi ích nên chẳng đoạn”. Ngài Ðàm Loan tán rằng: “Quang minh nhất thiết thời phổ chiếu, cố Phật hựu hiệu Bất Đoạn Quang” (Trong hết thảy thời quang minh chiếu trọn khắp, nên Phật lại hiệu là Bất Ðoạn Quang). Trong hết thảy thời thường chiếu trọn khắp chính là ý nghĩa của chữ “Thường Chiếu”.
Kinh Siêu Nhật Minh Tam Muội lại dạy:
“Nhật chi quang minh chiếu hiện tại sự. Nhân vật nhuyễn động, bách cốc dược mộc, chư thiên, long thần, giai nhân nhật thành, phổ đắc mậu hoạt. Nhật bất năng chiếu nhị Thiết Vy gian, diệc bất năng chiếu nhân tâm bổn linh khai đạt. Đản chiếu hữu hình, bất chiếu vô hình. Siêu Nhật Nguyệt tam-muội, sở dĩ thắng giả hà? Thù chiếu thập phương, vô biên vô tế. Tam giới ngũ đạo, mị bất triệt sướng. Hà huống Di Đà quang minh, cố danh Siêu Nhật Nguyệt Quang” (Quang minh của mặt trời soi tỏ mọi sự. Loài người, muôn vật, côn trùng, dược thảo trong các hang hốc, chư thiên, long thần đều nhờ mặt trời mà tồn tại, cùng được tươi tốt, nảy nở. Nhưng mặt trời chẳng thể chiếu tới khoảng giữa hai núi Thiết Vy, cũng chẳng thể soi rọi cho cõi lòng con người được khai ngộ, chỉ chiếu hữu hình, chẳng chiếu nổi vô hình. Vì sao Siêu Nhật Minh tam muội thù thắng? Vì tam-muội chiếu cả mười phương không bến, không bờ; tam giới, ngũ đạo không đâu là chẳng chiếu thấu suốt. [Tam-muội đã như thế] huống hồ là quang minh của Phật Di Ðà. Vì vậy Ngài hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang).
Ðoạn kinh trên đây đã giải thích danh hiệu Siêu Nhật Nguyệt Quang một cách khéo léo vượt xa những cách giải thích trước đó. Ánh sáng mặt trời chỉ có thể chiếu rọi hết thảy những thứ hữu hình, sanh trưởng thiên địa vạn vật, nhưng chẳng chiếu nổi thứ vô hình, chẳng thể chiếu qua núi Thiết Vy (vì vậy, chẳng soi được khoảng giữa hai núi Thiết Vy), chẳng thể khai minh cõi lòng con người. Siêu Nhật Nguyệt tam-muội thù thắng hơn thế, nhưng quang minh của Phật Di Ðà lại còn vượt xa tam-muội này. Do vậy, Phật hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang.
Danh hiệu Bất Tư Nghị Quang thấy ghi trong hai bản Ðường dịch và Tống dịch, bản Ngụy dịch tách thành hai danh hiệu Nan Tư Quang và Vô Xưng Quang. Nhưng Nan Tư chính là chẳng nghĩ nổi, Vô Xưng là chẳng thể diễn tả nổi. Ngài Tịnh Ảnh bảo: “Vượt ngoài mức tâm tưởng của thế gian nên bảo là Nan Tư Quang. Vượt ngoài ngôn ngữ của thế gian nên bảo là Vô Xưng Quang”. Ngài Cảnh Hưng nói: “Nhị Thừa chẳng thể nghĩ lường nổi quang minh ấy nên bảo là Nan Tư. Không thừa nào khác diễn tả nổi quang minh ấy nên bảo là Vô Xưng”.
Ngài Ðàm Loan lại tán rằng: “Quang minh ấy ngoại trừ Phật ra, không ai có thể suy lường nổi nên Phật lại hiệu là Nan Tư Quang… Thần quang ly tướng chẳng thể gọi tên nổi nên Phật lại hiệu là Vô Xưng Quang”. Quang minh đã vượt ra ngoài hình tướng của quang minh nên ngoại trừ đức Phật ra, không ai có thể suy lường nổi. Lời giảng của Ðàm Loan đại sư bao quát cả hai danh hiệu trước và sau nên rất thù thắng.

Trong bất tư nghị quang chứa đựng công đức chẳng thể nghĩ bàn của A Di Ðà Phật nên Phật hiệu là Bất Tư Nghị Quang. 

 

PVLQ11

Ảnh minh họa: "Này Xá-lợi-phất, Phật A Di Ðà thành Phật đến nay đã mười kiếp. Lại này Xá-lợi-phất, Ðức Phật kia có vô lượng vô biên chúng đệ tử Thanh văn đều là bậc đại A-la-hán, không thể tính đếm mà biết được; các chúng Bồ-tát cũng nhiều như thế."

(Kinh A Di Đà bằng tranh)

 

Chúng ta tiếp tục với phần đoạn Kinh văn trong phẩm thứ 12 này: "Do đó, Vô Lượng Thọ Phật cũng có hiệu là Vô Lượng Quang Phật, cũng gọi là Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Ðẳng Quang Phật...". Có 11 danh hiệu Phật khác nhau như thế về quang minh của Phật. Trong phân đoạn này các Ngài chú giải rất tường tận từng danh hiệu một, chúng ta đọc để biết rõ hơn [tổng cộng có 9 trang chú giải], trên đây chỉ là lược trích lại một vài chỗ quan trọng thôi.

Như chúng ta được biết, quang minh Phật soi chiếu trùm khắp cả mười phương pháp giới, không chừa chỗ nào cả, cho nên chúng sanh trong khắp thập phương đều có thể thọ nhận được quang minh này, chẳng chừa một chúng sanh nào cả, bất luận ở cảnh giới nào. Nhưng vấn đề là ở chỗ 'có thể' và thật sự lãnh nhận được là khác nhau. Bởi vậy, Phật thì không bỏ sót chúng sanh nào, còn chúng sanh có nhận lãnh được hay không đó lại là chuyện khác nữa. Như vậy sao Phật không 'giúp' chúng sanh tất cả đều thọ nhận được quang minh này luôn cho rồi, để đạt được những lợi ích thù thắng như: Hoan hỉ, Giải thoát, An ổn...? Dạ vấn đề nó nằm ở quy luật nhân quả, tâm Phật thì như thế, còn tâm chúng sanh thì như thế nào, đó mới là vấn đề, đâu thể ai 'tu' giúp ai được đâu!

Trong đoạn chú giải này có chỗ: 

Sách Luận Chú viết: “Nếu gặp được quang minh của A Di Ðà Phật chiếu đến thì sẽ giải thoát các sự ràng buộc nơi ý nghiệp, vào nhà Như Lai, rốt ráo đắc ý nghiệp bình đẳng”. Ðấy chính là ý nghĩa của câu “nhờ quang minh chiếu nên được hiểu”.

Vô Biên Quang Phật: Tán A Di Ðà Phật Kệ viết: “Giải thoát quang luân vô hạn tế, cố Phật hựu hiệu Vô Biên Quang, mông quang xúc giả ly hữu vô, thị cố khể thủ Bình Đẳng Giác” (Vầng ánh sáng giải thoát không ngằn mé, nên Phật lại có hiệu là Vô Biên Quang; kẻ được quang chiếu soi bèn lìa hữu, vô. Vì vậy, kính lễ đấng Bình Ðẳng Giác).

"Nếu gặp được quang minh của A Di Ðà Phật chiếu đến thì sẽ giải thoát các sự ràng buộc nơi ý nghiệp". Vậy thì ai sẽ 'gặp' được quang minh của Phật chiếu đến đây? Trong Quán Kinh Phật nói rằng: "Quang minh biến chiếu soi chiếu khắp thập phương thế giới, thâu nhiếp chẳng rời chúng sanh niệm Phật" [ở bất cứ đâu, cảnh giới nào]. Vậy rõ ràng chúng sanh niệm Phật sẽ được quang minh Phật soi chiếu không rời, nhưng do họ không 'nhìn thấy' đó thôi. Như vậy thì liệu họ có thực sự "giải thoát các sự ràng buộc nơi ý nghiệp" như đoạn Kinh luận bên trên kia nói không? Câu trả lời dĩ nhiên là có, chỉ có điều tốc độ nhanh hay chậm thì còn tùy thuộc vào hành nhân nữa, có người niệm một thời gian ngắn là 'giải thoát' luôn, tức tâm khai ý giải, không còn dính mắc hay tình chấp ràng buộc gì cả, còn có người phải một thời gian lâu dài hành trì miên mật thì dần dần mới 'thấm', buông bỏ dần những tình chấp này kia, rồi cũng có người cũng ra sức hành trì nhưng chẳng thấy biến đổi gì mấy, nói chung sự thay đổi là quá ít so với công sức bỏ ra. Vì sao có sự khác biệt này? Vấn đề nó nằm ở chỗ cái tâm dùng để dụng công [dụng Pháp] đó là như thế nào? Nếu dụng Pháp rồi hoàn toàn tin tưởng vào Pháp thì sẽ thấy khác biệt ngay, nếu tâm ý triệt để tin tưởng Pháp thì sẽ dễ dàng buông bỏ được tất cả, thật sự cái tâm sẽ không bị trói buộc bởi bất cứ thứ gì, khi nào cần buông là sẽ buông được tất cả thôi. Còn dĩ nhiên khi vẫn còn trong trần lao này để tu tập cầu đạo thì về mặt sự tướng vẫn phải 'sống' như mọi người vậy, tức cũng phải ăn uống, ngủ nghỉ, sinh hoạt, làm việc, gánh vác trọng trách nhiệm vụ này kia v.v..., chứ không phải ai cũng 'đủ phước'  mà có thể buông bỏ tất cả để chuyên tâm hành đạo hết đâu, trừ một số rất ít có thể làm được vậy. Tuy nhiên chúng ta đừng nên tìm cầu hay 'bắt chước' chạy theo, hãy tùy duyên theo duyên phước mình mà tu tập, như vậy mới thật sự ổn thỏa, bền lâu.

Nói chung vấn đề về quang minh Phật ở đây thuộc về phạm trù khá là 'trừu tượng', phàm phu chúng ta chẳng thể biết hết được, bởi đó thuộc về "Bất Tư Nghì Quang", chỉ Phật cùng Phật mới thấu rõ tất cả, cho nên chúng ta không cần phải luận bàn cho nhiều cho sâu kẻo trở thành 'vọng ngữ' khẩu nghiệp.

Chúng ta cùng dành chút thời gian để tiếp tục tu học, gầy dựng Tín Nguyện tâm cho đạt 'tới nơi' mới được, như thế thì khi quang minh Phật chiếu soi [chúng sanh niệm Phật] chúng ta mới thọ nhận được đầy đủ công đức, diệu dụng mà cái Pháp này ban tặng cho, và quan trọng hơn đó là cảm được Di Đà Bổn Nguyện [tiếp dẫn] để cuối đời được nương cậy Phật Nguyện lực mà đới nghiệp vãng sanh, vào được Chánh quốc vậy. Chúng ta biết, trong Bổn Nguyện tiếp dẫn có chỗ đặc biệt quan trọng đó là "nãi chí thập niệm", cái này là do Phật vì hạng thấp kém nhất mà tuyên thệ ra điều này, tức là không còn dạng nào thấp kém hơn được nữa. Hay nói cách khác là không có dạng nào là không được Phật cứu độ cả, bởi hạng bét thấp nhất còn được cứu thì tất cả các thứ hạng khác cũng như vậy, tất cả đều được cứu. Bởi vậy, Pháp môn bình đẳng chính là bởi yếu tố này, chính từ cụm từ này mà ra, tức Phật cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật [chân thật muốn được về], không chừa một chúng sanh nào cả. Do đó đây là chỗ để chúng sanh nương tựa làm cơ sở để gầy dựng phát khởi Tín tâm chân thật, chớ hoài nghi, 'bất sanh nghi hoặc', tức đạt 'tới hạn' [chí tâm tin ưa] ngay từ lúc bình thời này. Cho nên chúng ta cần phải hiểu rõ chỗ Kinh văn này, để làm cơ sở phát khởi Tín tâm, chứ không phải Kinh văn nói như thế để chúng ta hành trì như vậy, mọi người hay nhập nhằng lẫn lộn giữa Tín tâm và hành trì, hành trì là một chuyện còn tin hay không là câu chuyện khác, bởi vậy mới gọi là chúng sanh, còn cần phải tu học. Chúng ta thấy trong Kinh Phật thuyết hay từ lời các Ngài chỉ dạy, đều nhấn mạnh ở vấn đề Tín tâm [kèm theo] cả, không bao giờ thiếu sót điều này, như trong Bổn Nguyện thì là "chí tâm tin ưa", còn các Chư Tổ  Sư là "Dùng Tín Nguyện sâu, trì danh hiệu Phật", hay "Được vãng sanh hay không là do có Tín Nguyện hay không"... Cho nên, hành giả Tịnh Độ chúng ta, rằng phải 'bằng cách nào đó' phải tin cho được lời Phật thuyết trong Kinh, tức Di Đà Bổn Nguyện, chẳng sanh nghi hoặc mới được, có thể từ thiện căn sẳn có, cùng việc siêng năng tinh tấn hành trì, cộng với việc kết hợp gầy dựng học tập dần lên, mỗi ngày một phát khởi dần lên, đến lúc nào đó nó 'kịch trần' luôn là được, lúc đó sẽ loại được hẳn hoàn toàn những hoài nghi này kia dành cho Bổn Nguyện của Phật, khi đó thì chẳng còn cách trở nào giữa Phật và chúng sanh cả, chắc chắn có cảm ứng đạo giao [mà chúng ta cũng không hề hay biết], cho đến khi mệnh chung chính do sự cảm ứng đạo giao này chắc chắn Phật lực sẽ từ bi gia hựu che chở rồi Phật cùng Thánh chúng sẽ đến tiếp dẫn chúng ta về Cực Lạc.

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 12. Quang Minh Biến Chiếu (trích lục)

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Các Bài Pháp Nổi Bật

"Tự Mình Chẳng Về, Về Liền Được; Gió Trăng Quê Cũ Há Ai Giành?"

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh
    (năm Dân Quốc 22 - 1933)

    Đã ăn chay trường niệm Phật, [vẫn cần] hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể...
    Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp?

  • Quanh Năm Niệm Phật

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao

    Nhận được thư ông từ ba hôm trước, biết lệnh lang là Hà Sanh đã niệm Phật vãng sanh. Tuy về Thế Đế, tựa hồ [đó là] chuyện bất hạnh, nhưng vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao. 

  • Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

  • Mô tả

    Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

    1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.

  • Chứng Bất Thoái Ngay Trong Hiện Đời

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Pháp Môn Vừa Cực Khó Vừa Cực Dễ

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh

    Ông đã biết lợi ích của việc niệm Phật thì từ rày hãy nên gắng công hơn để tự được nhất tâm. Nhưng một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh, chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực để vãng sanh.

  • Đắc Đà-Ra-Ni

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Chiếu Tột Mười Phương

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Hễ Có Tín Nguyện Thì Không Một Ai Chẳng Được Thấm Nhuần, Viên Đốn Thẳng Chóng

  • Mô tả

    Luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu

    Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo đó thôi! Nhưng vì chúng sanh căn cơ bất nhất, khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp diệu minh, nếu không phải là người túc căn thành thục lại muốn ngay trong một đời này hoàn thành thì thật là hiếm có mấy ai.