Chánh kinh:
Kỳ nhất giả, thế gian chư chúng sanh loại, dục vi chúng ác, cường giả phục nhược, chuyển tương khắc tặc, tàn hại sát thương, điệt tương thôn đạm, bất tri vi thiện, hậu thọ ương phạt. Cố hữu cùng khất, cô độc, lung manh, ám á, si ác, uông cuồng, giai nhân tiền thế bất tín đạo đức, bất khẳng vi thiện. Kỳ hữu tôn quý, hào phú, hiền minh, trưởng giả, trí dũng, tài đạt, giai do túc thế từ hiếu, tu thiện tích đức sở trí. Thế gian hữu thử mục tiền hiện sự, thọ chung chi hậu, nhập kỳ u minh, chuyển sanh thọ thân, cải hình dịch đạo. Cố hữu Nê Lê, cầm thú, quyên phi nhuyễn động chi thuộc. Thí như thế pháp lao ngục, kịch khổ cực hình, hồn thần mạng tinh, tùy tội thú hướng, sở thọ thọ mạng, hoặc trường, hoặc đoản, tương tùng cộng sanh, cánh tương báo thường. Ương ác vị tận, chung bất đắc ly, triển chuyển kỳ trung, lũy kiếp nan xuất, nan đắc giải thoát, thống bất khả ngôn. Thiên địa chi gian, tự nhiên hữu thị. Tuy bất tức thời bạo ứng, thiện ác hội đương quy chi.
Thứ nhất là các loài chúng sanh trong thế gian muốn làm các điều ác: Kẻ mạnh hiếp yếu, chế ngự, giết chóc lẫn nhau, tàn hại, sát thương, ăn nuốt lẫn nhau, chẳng biết làm lành, sau chịu ương phạt. Bởi thế có kẻ nghèo cùng, ăn mày, cô độc, điếc, mù, câm, ngọng, si ác, dặt dẹo, cuồng dại; đều là do đời trước chẳng tin đạo đức, chẳng chịu làm lành. Những kẻ tôn quý, giàu sang, hiền minh, trưởng giả, trí huệ mạnh mẽ, tài năng thông đạt đều là do đời trước từ hiếu, tu thiện, tích đức cảm thành. Thế gian có những chuyện sờ sờ trước mắt như thế. Sau khi hết tuổi thọ, vào chốn u minh, chuyển sanh thọ thân, thay hình đổi nẻo nên mới có Nê Lê, cầm thú, các loài ngọ nguậy, bay bổng, bò, trườn. Ví như chốn tù ngục theo pháp luật thế gian, cực hình thật khổ. Hồn thần, mạng tinh theo tội mà hướng về, chịu lấy thọ mạng hoặc dài hay ngắn, theo nhau cùng sanh để báo đền lẫn nhau. Ương họa, sự ác chưa hết, trọn chẳng thể thoát nổi. Xoay vần trong ấy bao kiếp khó ra, khó được giải thoát, đau đớn không thể nói nổi! Trong vòng trời đất, tự nhiên có như thế, tuy chẳng báo ứng rầm rộ ngay lập tức, mà thiện ác rồi sẽ quy kết cả.
Giải:
Ðầu tiên, kinh văn nói đến sự ác giết chóc. Kinh chép: “Cường giả phục nhược, chuyển tương khắc tặc, tàn hại sát thương, điệt tương thôn đạm” (Kẻ mạnh hiếp yếu, chế ngự, giết chóc lẫn nhau, tàn hại, sát thương, ăn nuốt lẫn nhau). “Phục” (伏) là hàng phục. Chữ “khắc” (尅) giống với chữ Khắc (剋) nghĩa là khắc chế, giết chóc (theo Trung Hoa Đại Từ Điển). Sách Hội Sớ giảng: “Cường giả phục nhược: Kẻ giết chóc là ‘cường giả’, kẻ bị giết là ‘nhược’. Người hay thú cũng thế. ‘Chuyển tương khắc tặc’: Khắc là chế ngự, đánh thắng, sát hại, Tặc là tàn hại, như chim sẻ nuốt bọ ngựa, người lại giết chim nên bảo là Chuyển Tương”. Ngài Cảnh Hưng lại bảo: “Khắc là giết, Tặc là hại”.
“Tàn hại” là hung tàn, làm thương tổn. “Sát thương” là giết cho chết hay làm cho thân kẻ khác bị thương tích. Rắn nuốt cóc, cóc lại ăn giun đất, nên bảo là “điệt tương thôn đạm” (ăn nuốt lẫn nhau). Những câu trên đây đều nói đến điều ác sát sanh.
Cả đoạn kinh từ “bất tri vi thiện” (chẳng biết làm lành) cho đến “bất khẳng vi thiện” (chẳng chịu làm lành) đều nói lên lỗi hại của việc tạo ác. Ðã làm đủ mọi điều ác lại còn sát hại sanh mạng nên phải chịu quả báo “cùng, khất... uông cuồng” (nghèo nàn, ăn xin… dặt dẹo, cuồng dại). “Cùng” (窮) là nghèo túng, “khất” (乞) là kẻ ăn mày xin cơm sống qua ngày. Sách Nhất Thiết Kinh Âm Nghĩa giảng chữ “cô độc” như sau: “Không cha là Cô (孤), không con là Ðộc (獨)”. Ngài Cảnh Hưng nói: “Cô là không cha mẹ, Ðộc là không con cái”.
“Lung” (聾) là tai không nghe được tiếng; “manh” (盲) là mắt chẳng thấy được. “Ám” (瘖) là miệng chẳng phát ra tiếng được (câm), “á” (瘂) là tuy phát ra tiếng, nhưng lưỡi chẳng động nên chẳng thể nói ra tiếng được. “Si” (癡) là ngu si, si ngốc. “Ác” (惡) là hung ác chẳng lành. “Uông” (尫) là yếu đuối, tật nguyền, quắt queo. “Cuồng” (狂) là điên khùng. Ðấy đều là những “ương phạt” do “bất tín đạo đức, bất khẳng vi thiện” (chẳng tin đạo đức, chẳng chịu làm lành). “Ương” (殃) là tai họa, “phạt” (罰) là tội lệ.
Tiếp đó, kinh nói những điều như giàu sang, trí huệ nhạy bén... để biểu thị những điều đạt được do làm lành nhằm càng làm rõ thêm những tổn thất do ác nghiệp gây ra.
“Tôn quý, hào phú” là người phú quý trong thế gian. “Hiền minh, trí dũng, tài đạt” là bậc hiền trí trong loài người. Chữ “trưởng giả” là tiếng gọi chung để chỉ bậc đủ cả hai thứ tài sản và đức hạnh. “Trưởng giả” cũng là tiếng để gọi bậc cao tuổi giàu có. Người hiền trí, phú quý trong đời đều do trong đời quá khứ từng từ ái, tận hiếu “tu thiện, tích đức” nên đạt được như thế. Trên đây, kinh đã nói đến nhân quả chẳng hư dối, là những điều thế gian có thể thấy được.
Những thứ ương phạt như “cùng, khất” (nghèo cùng, ăn mày) cho đến “uông, cuồng” (quặt quẹo, cuồng dại) là những loại dễ thấy trong đời, nhưng mấy ai biết rằng “thọ chung chi hậu” (sau khi hết tuổi thọ), nỗi khổ sở còn nặng nề hơn nữa. Từ câu “nhập kỳ u minh” (vào chốn u minh) trở đi, kinh nói thẳng vào những tội khổ.
“U minh” còn thường gọi là “minh đồ” (冥途: con đường tăm tối), “minh giới” (冥界: cõi tối tăm) là danh từ chỉ chung cả ba đường ác, cũng là chữ để chỉ riêng quỷ giới và địa ngục; chẳng hạn như sách Hội Sớ ghi: “U minh tức là minh đồ, suối vàng”.
Câu “chuyển sanh thọ thân, cải hình dịch đạo” (thọ thân trong cuộc sống khác, đổi hình, thay nẻo) được sách Hội Sớ giảng: “Thoát thân người, chịu thân quỷ, súc sanh v.v… nên bảo là ‘chuyển sanh thọ thân’. Chuyển biến trong tứ sanh nên bảo là ‘cải hình’. Sống chết trong sáu đường nên bảo là dịch đạo”.
“Tứ sanh” là noãn, thai, thấp, hóa, chẳng hạn như: Bỏ thân chim sẻ để mang thân chó nên gọi là “cải hình”. Lại như bỏ thân người khoác thân chó, tức là từ nhân đạo chuyển sanh vào súc sanh đạo nên gọi là “dịch đạo” (thay đường). Chúng sanh xoay vần trong sáu đường. “Nê Lê” chính là địa ngục. “Quyên phi” những loài trùng biết bay, “nhuyễn động” loại trùng biết bò.
Ngài Gia Tường giảng câu: “Thí như thế pháp lao ngục, kịch khổ cực hình” (Ví như chốn lao ngục theo pháp luật thế gian cực hình rất khổ) như sau: “Ví như phép vua là dẫn thí dụ để so sánh, trước là báo nhẹ, sau là khổ nặng, giống như pháp vua trị tội: Trước hết là gông xiềng, sau hạ chỉ đem ra chợ giết đi. Trước là hiện báo, sau vào địa ngục nên bảo là cực hình”. Ý Ngài nói: Làm ác chịu báo, trước là thọ quả báo nhẹ trong hiện đời; thân sau lại chịu trọng báo giống như phép vua trừng trị tội phạm: Trước hết nhốt vào ngục, thân bị gông xiềng, chịu đựng các khổ lớn. Những điều ấy ví như chịu các khổ báo nơi thân hiện tại. Tối hậu mới dùng đến cực hình, giết mất sanh mạng. Chữ “cực hình” để ví cõi địa ngục. Nỗi khổ trong địa ngục như lửa nung đốt thân. Lại sau khi chết đi, đọa vào tam đồ bèn có Nê Lê, cầm thú, côn trùng… Ðịa ngục khổ nhất nên gọi là “cực hình”.
“Tương tùng cộng sanh, cánh tương báo thường” (Theo nhau cùng sanh để báo đền lẫn nhau) nghĩa là: Oan oan tương báo chẳng có cùng tận. Sách Hội Sớ nói: “Những kẻ sát sanh đời đời cùng sanh ra cùng lúc với nhau, người này giết hại người kia để báo đền nỗi oán hận”. Chẳng hạn như: Kẻ bị giết vì muốn đòi nợ mạng nên ắt theo đuổi kẻ oán đối, phải đồng thời xuất hiện trong thế gian thì mới mong báo oán nổi. Bởi thế, oan gia trái chủ “tương tùng cộng sanh”. Ðời này người giết dê, tương lai người chết thành dê, dê chết thành người. Lại như mèo chết thành chuột, chuột chết thành mèo, đời đời cùng sanh với nhau, đoạt mạng để đền nợ nên kinh nói: “Cánh tương báo thường” (Báo đền lẫn nhau).
Lại do kẻ đòi nợ đã qua thật nhiều đời báo oán, lại kết thành kẻ oán, người thân nên chẳng biết lúc nào xong. “Ương ác vị tận, chung bất đắc ly” (Ương họa, điều ác chưa hết sẽ trọn chẳng thể thoát được): “Ương” (殃) là họa, là tội, là hình phạt. Những ương ác đã tạo chưa đền trả hết ắt sẽ xoay vần mãi nơi trong đường ác chẳng có lúc ra, đau đớn không thể nói nổi.
Ngài Nghĩa Tịch giảng câu “tự nhiên hữu thị” (tự nhiên có những điều ấy) như sau: “Làm ác, dẫu chẳng muốn chịu quả khổ, quả khổ vẫn tự đến. Tu thiện, dẫu chẳng mong cầu quả vui, quả vui vẫn tự đến, khác nào như bóng theo hình, như tiếng vọng theo âm thanh. Nhưng kinh đây bảo là ‘tự nhiên’ nhằm ý nói nhân quả là pháp quyết định như thế đó”.
Sách Hội Sớ cũng nói: “Nhân quả ắt ứng nghiệm nên bảo là tự nhiên”.
“Bạo” (暴) là mạnh gấp, đột nhiên, chữ “ứng” (應) là báo ứng. Người lành làm lành, kẻ ác làm ác, ắt chịu quả báo, nhưng quả báo hoặc là chẳng ứng hiện ngay lập tức trong hiện tại nhưng nhân quả chẳng dối, ắt trong đời sau sẽ phải chịu khổ báo nên kinh dạy: “Thiện ác hội đương quy chi” (Thiện ác rồi sẽ quy kết cả).
Ảnh: Nuôi trồng, đánh bắt, buôn bán thủy hải sản, thịt động vật - những nghề nghiệp sát sanh, hại vật hạng nặng.
Đoạn văn: Cả đoạn kinh từ “bất tri vi thiện” (chẳng biết làm lành) cho đến “bất khẳng vi thiện” (chẳng chịu làm lành) đều nói lên lỗi hại của việc tạo ác. Ðã làm đủ mọi điều ác lại còn sát hại sanh mạng nên phải chịu quả báo “cùng, khất... uông cuồng” (nghèo nàn, ăn xin… dặt dẹo, cuồng dại).
Nói chung nghiệp sát trong thế gian xuất phát từ căn nguyên chính là từ việc ăn uống mà ra. Có nhu cầu tiêu thụ thì mới có việc sản xuất, cấp dưỡng. Nếu thế gian này toàn người ăn chay hết thì đỡ được biết bao nhiêu tai kiếp. Rồi bên cạnh nhu cầu ăn uống còn có nhu cầu sử dụng [hàng tiêu dùng, may mặc, hóa chất, mỹ phẩm...] cũng không ít loại được chế biến từ động vật. Con người chỉ biết phục vụ những lợi ích cho mình mà đi sát sanh hại vật, tạo tác không biết bao nhiêu mà kể hết. Riêng cái nghiệp sát này đã hẫy hừng khắp năm châu bốn bể. Bởi vậy thiên tai, ôn dịch, chiến tranh, giết chóc... cứ xuất hiện liên tục, hết chỗ này lại nổi lên chỗ khác. Rồi những thân phận cùng, khất, cô, độc... cũng thấy khắp nơi. Thật ra đó chỉ là những hoa báo trong thế gian, [sau đó] cái hậu báo mới thật là đáng sợ.
Đoạn: Ngài Gia Tường giảng câu: “Thí như thế pháp lao ngục, kịch khổ cực hình” (Ví như chốn lao ngục theo pháp luật thế gian cực hình rất khổ) như sau: “Ví như phép vua là dẫn thí dụ để so sánh, trước là báo nhẹ, sau là khổ nặng, giống như pháp vua trị tội: Trước hết là gông xiềng, sau hạ chỉ đem ra chợ giết đi. Trước là hiện báo, sau vào địa ngục nên bảo là cực hình”.
Chúng ta chứng kiến những thân phận [kém may mắn] như thế, một khi thọ mạng hết, chịu xong những nỗi bất hạnh như thế, thì không có nghĩa là đã trả xong nợ đâu, mà trước mắt họ [có thể] lại là một màn đêm u tối, những cực hình [thật sự] đang chờ đón họ ở các cảnh giới khác chăng? Thật kinh khủng, đáng sợ! Nên chúng ta có thương họ thì nếu đủ nhân duyên hãy hướng họ vào đạo, biết tu hành, hướng thượng ngõ hầu tiêu trừ bớt nghiệp chướng, cầu thoát ly khỏi sanh tử. Đây mới là sự giúp đỡ rốt ráo nhất. Dĩ nhiên, tùy nghi phương tiện [bố thí nhiếp, giúp an vui...] rất cần để độ sanh vậy.
Đoạn tiếp theo: “Tương tùng cộng sanh, cánh tương báo thường” (Theo nhau cùng sanh để báo đền lẫn nhau) nghĩa là: Oan oan tương báo chẳng có cùng tận. Sách Hội Sớ nói: “Những kẻ sát sanh đời đời cùng sanh ra cùng lúc với nhau, người này giết hại người kia để báo đền nỗi oán hận”.
Nhân duyên gặp gỡ trong đời này là do các nhân duyên: ân, oán, trả nợ, đòi nợ hay hỗn hợp của những thứ đó, rồi nhiều khi không phải 'tính sổ' xong mà lại tiếp tục vay, trả, nghiệp chồng thêm nghiệp. Cho nên cứ theo nhau [như hình với bóng], “tương tùng cộng sanh, cánh tương báo thường” (theo nhau cùng sanh để báo đền lẫn nhau). Mà túc nghiệp chúng sanh trong lục đạo này phần nhiều lại là tạo tác, xấu ác chiếm áp đảo, cho nên trong đời chúng ta thường gặp gỡ thấy 'quý nhân' thì ít mà 'oan gia ngõ hẹp' lại nhiều. Việc này chỉ có tu hành, học đạo thì mới nhanh chóng hóa giải những mối oan khiên này. Chứ còn [cố gắng] trả cho hết nợ nần thì chắc là lâu lắm, dài lắm, không khéo phiền não, sân si càng làm trầm trọng thêm. Chúng ta hằng ngày ăn chay, niệm Phật, sống hướng thiện, làm lợi lạc chúng sanh... vừa giúp tiêu trừ nghiệp chướng vừa tạo phước duyên, tức như là 'đới công chuộc tội' vậy. Chư Tổ nói, một khi tâm Bồ Đề phát lên thì phát nổ [như lưu huỳnh] rất mạnh, tiêu trừ rất nhanh. Dĩ nhiên, trong việc tu hành thì chữ Nhẫn là không thể thiếu. Các Ngài nói: "Nhẫn nhỏ thành tựu nhỏ, nhẫn lớn thành tựu lớn, không nhẫn thì không thành tựu". Trong đó thì hai cái mà chúng ta hay 'đụng' phải nhất, đò là [chịu] thiệt và [chịu] nhục. Bởi hai cái này nó liên quan đến cái danh cái lợi của chúng ta. Trong cuộc sống hàng ngày phàm phu chúng ta ít nhiều đều chấp vào những cái này. Đó chính là căn nguyên của những phiền não [tham sân si] của chúng ta vậy. Nếu chúng ta [rèn luyện] mà 'chịu' được [hoan hỉ, bất oán], thì không những phiền não giảm đi mà phước huệ đồng thời tăng trưởng, một công đôi việc. Như các Ngài nói "Phiền não chính là Bồ Đề" là như vậy. Đường đạo cũng sẽ hanh thông, tiến bước, ít bị trở ngại vậy.
Các đoạn còn lại chúng ta cùng học tập theo chú giải của các Ngài để thêm lợi ích.
Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ
Phẩm 35. Trược Thế Ác Khổ
Ngài Hoàng Niệm Tổ