Bà Lão Niệm Phật Được Thiện Tri Thức Khai Thị Dứt Trừ Lòng Nghi, Biết Trước Ngày Giờ Vãng Sanh

NPSTD7

 

Bà Lão Niệm Phật Được Thiện Tri Thức Khai Thị Dứt Trừ Lòng Nghi, Biết Trước Ngày Giờ Vãng Sanh

Cư sĩ Hạ Tu Trân là người thôn Dương Cang, làng Cậm Thành, huyện Lâm Lễ, tỉnh Hồ Nam. Bà vãng sanh lúc 86 tuổi.

Sau khi được tôi giới thiệu, bà quy y Tam Bảo vào ngày mùng 8 tháng Chạp năm 1993. Từ đó bà ăn chay trường. Hằng ngày, sáng sớm bà niệm Bồ Tát Quán Thế Âm ba ngàn tiếng. Ban ngày niệm Phật A Di Đà bảy nghìn tiếng. Ngoài ra còn học thời khóa sớm tối, muốn rèn cho được công phu nhất tâm bất loạn.

Vào tháng 2 năm 2000, tôi nhận được bài giảng của sư phụ Tịnh Tông về Bản Nguyện Niệm Phật. Xem tới xem lui vài lần, tôi mừng đến nước mắt ràng rụa đầy mặt. Tôi học Phật Pháp suốt mười năm nay chính là muốn vãng sanh Tịnh Độ. Thế nhưng, càng học tôi càng kinh càng sợ. Tôi thuộc dạng người độn căn đến bửa đầu ra nhét vào cũng chẳng hiểu. Dạng người ngu si hết thuốc chữa như tôi cuối cùng thì cũng được cứu rồi, nghe được tiếng gọi của Đức Phật A Di Đà rồi, tốt quá đi thôi. Tôi muốn chia sẻ với các Liên hữu cùng học về Pháp môn Bản Nguyện Niệm Phật vãng sanh Báo Độ.

Tháng 5 năm 2000 tôi đến thăm bà Hạ, bà nói trong người không được khỏe, cầm không nổi xâu chuỗi niệm Phật, không biết có thể vãng sanh về Thế Giới Tây Phương Cực Lạc hay không? Bà rất lo lắng lúc lâm chung không có người trợ niệm, v.v… Tôi nói với bà Hạ:

Vãng sanh Tịnh Độ là nương vào Phật lực chứ không phải do tự lực. Chỉ cần bà niệm Phật, thì Đức Phật A Di Đà sẽ nhiếp thủ không bỏ, không cần lo lắng có người trợ niệm hay không, công phu sâu cạn không thành vấn đề, không cầm chuỗi niệm cũng chẳng sao, niệm được bao nhiêu thì niệm bấy nhiêu. Hoàn toàn nương tựa vào sự cứu độ của Đức Phật A Di Đà, quyết định có thể sanh Báo Độ. Bà cứ mạnh dạn an tâm mà niệm Nam Mô A Di Đà Phật đi.

Bà Hạ rất hoan hỉ giữ tôi ở lại nhà bà một ngày, chuyên nói về Bản Nguyện Niệm Phật, chuyên xưng danh hiệu Di Đà, nương nhờ Phật lực, chắc chắn được vãng sanh!

Tháng 7, con gái đưa bà đến bệnh viện Nhân Dân nằm viện mấy ngày. Sáng ngày 30 tháng 7, bà Hạ vội bảo con gái:

Mẹ sắp đi rồi. Con lập tức làm thủ tục xuất viện đưa mẹ về nhà.

Khoảng hơn 9 giờ sáng ngày hôm ấy, vừa về đến nhà bà kêu con gái mau mau tắm rửa, thay quần áo cho bà. Rồi bà nói:

Phật đến rồi kìa, các con lạy Phật đi!

Con gái bà không học Phật Pháp, không hiểu ý mẹ, tưởng bà muốn thỉnh tượng Phật trong nhà ra. Bà Hạ vội vã nhờ người đỡ bà dậy, ở trên giường lạy ba lạy, vừa lạy vừa niệm “Nam Mô A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát”, ba lần, rồi bà ngã ra vãng sanh.

Như vậy bà lão Hạ đã biết trước giờ đi, thấy Phật và Bồ Tát đến rước. Trong khi bệnh không có người trợ niệm, thân không đau đớn, tâm không bấn loạn, nhẹ nhàng tự tại vãng sanh một cách an lành.

Tối hôm ấy, các Liên hữu nhận được tin liền đến niệm Phật tiễn bà Hạ. Họ nhìn thấy bà vãng sanh tướng tốt, miệng mỉm cười, sắc mặt và môi đều đỏ hồng, toàn thân mền mại. Mãi đến ba ngày sau mới đậy nắp quan tài, nhưng sắc diện bà vẫn còn tươi tắn giống như người sống vậy.

Vào tiết trời tháng 7 rất nóng, thi thể để ba ngày mà vẫn không bị biến dạng. Thế nên biết, công đức Bản Nguyện Niệm Phật là không thể nghĩ bàn!

Nam Mô A Di Đà Phật!

(Ngày 8 tháng 5 năm 2001, Diệu Bi ghi)

 

SU THICH PHAP CHIEU 2

 

Trích Một Trăm Truyện Niệm Phật Cảm Ứng

Nguyên Tác: Pháp Sư Huệ Tịnh - Tịnh Tông

Người Dịch: Diệu Mỹ - Hiệu Đính: Định Huệ

Nhà Xuất Bản Tôn Giáo

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.