Công Phu Địa Chung Cho Cá Nhân

NPSTD7

 

Công Phu Địa Chung Cho Cá Nhân

I. PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH

- Y phục trang nghiêm.

- Lễ bái.

- Ngồi ngay ngắn, kiết già hoặc bán già, lưng thẳng.

- Mắt nhắm nhẹ, định tâm.

- Bắt đầu niệm chậm rãi, ra tiếng rõ ràng từng chữ từng câu, bụng xẹp xuống theo hơi thở ra, cho đến khi hết hơi hẳn. Tùy sức người, có người niệm được 2 câu, có người được 3 câu, hay 4 câu...

- Hít vào chậm rãi, trong lúc hít vào vẫn tiếp tục niệm thầm không gián đoạn câu Phật hiệu (tùy sức và tốc độ niệm, có thể là một câu, hai câu...), tốc độ niệm thầm bằng với niệm ra tiếng, bụng căng lên (lưu ý là ở đây đề xướng dùng phương pháp thở bụng: thở ra bụng xẹp xuống, hít vào bụng căng lên, đặc biệt chú ý ở pha thở ra bụng xẹp hẳn xuống thì khi hít vào tự nhiên bụng bật ra). Cứ tiếp tục như vậy.

- Trong suốt quá trình, tâm luôn lắng nghe tiếng Phật hiệu do mình niệm ra (đây là điều quan trọng nhất, kể cả khi hít vào niệm thầm, không để gián đoạn việc nhiếp tâm nghe), không sử dụng máy niệm Phật, máy bấm số hay phương tiện gì trong suốt thời khóa này.

- Tốc độ niệm nhanh hay chậm thì tùy mỗi cá nhân. Ở đây đề xuất tốc độ niệm là 1 chữ một giây (hay khoảng như vậy), một câu A Di Đà Phật là khoảng 4 giây hoặc lâu hơn. Niệm chậm chắc, rõ ràng rành mạch, đều đặn nhẹ nhàng, sẽ dễ ghi khắc câu Phật hiệu vào tâm. Đi đứng nằm ngồi cũng dễ nhiếp tâm với tốc độ niệm này (lúc này có thể kết hợp dùng máy niệm Phật, bấm số, hay lần chuỗi...). Tuy nhiên cũng tùy nghi phương tiện hoàn cảnh căn cơ thôi, không nhất thiết ai cũng phải dùng.

- Thời lượng: Tùy theo điều kiện cá nhân. Nhưng nên từ một tiếng trở lên cho một thời khóa.

- Kết thúc thời khóa, phát nguyện, hồi hướng, lễ bái.

 

II. MỘT SỐ LƯU Ý

- Mỗi ngày nên có từ hai thời công phu này trở lên. Nói chung càng nhiều càng tốt.

- Thời gian để quen với cách thức công phu này: Khoảng 3-6 tháng (với người đã từng thực hành phương pháp thở bụng rồi thì khoảng 1-2 tháng).

- Khi mới bắt đầu tập, có thể xuất hiện một số hiện tượng như: xây xẩm, căng thẳng, tâm phân tán, khó nhiếp tâm vào câu Phật hiệu, khó điều tiết hơi thở, niệm mau mệt... Đó là vì chưa quen phương pháp thở bụng, chưa quen với tốc độ niệm và chưa quen với phương pháp niệm kết hợp thở sâu này. Cứ kiên trì tập luyện, sau một thời gian khi đã quen rồi, các hiện tượng tiêu cực đó sẽ không còn, các ưu điểm sẽ bắt đầu cảm nhận được. Câu Phật hiệu cũng bắt đầu dễ nhiếp tâm hơn [so với cách niệm thông thường nhiều lắm].

- Một khi đã quen với phương pháp rồi thì chỉ chú tâm lắng nghe câu Phật hiệu thôi, đừng để ý đến hơi thở nữa, chỉ còn lắng nghe tiếng niệm của mình mà thôi.

- Vẫn có thể áp dụng phương pháp này với cách thở thông thường (tức là thở bằng ngực: hít vào ngực căng lên bụng xẹp, thở ra ngực xẹp xuống bụng căng), nhưng hiệu quả dĩ nhiên không bằng với cách thở bụng.

 

III. ƯU - NHƯỢC ĐIỂM CỦA PHƯƠNG PHÁP

- Ưu điểm: Nước uống nóng lạnh tự biết! Ở đây chỉ đề cập một chút rằng, sau một thời gian hành trì thì sức đề kháng cơ thể của hành giả sẽ tăng lên rõ rệt. Cho nên những ai thể chất không được tốt, hay đau ốm, hay những ai phải lao tâm lao lực nhiều rất nên áp dụng hằng ngày.

- Nhược điểm:

  + Chỉ thực hành cho từng cá nhân, không cộng tu cùng đại chúng theo phương pháp này được.

  + Cần có sự kiên trì tập luyện, theo đuổi không bỏ cuộc, do ban đầu hơi khó thích nghi. Phải hành trì lâu dài mới dần thấy được công hiệu, không phải dạng phương pháp dễ thấy ngay được hiệu quả.

 

IV. NHẬN XÉT

- Vì mỗi cá nhân căn tánh bất đồng, nên công phu cá nhân là để gầy dựng năng lực công phu riêng cho từng cá nhân, do đó rất cần thiết trong tu tập (bên cạnh các thời khóa khác như: Lễ Phật - niệm Phật, địa chung cùng đại chúng...). Chúng ta đừng nên xem nhẹ thời khóa địa chung cá nhân, bởi đây chính là chỗ chúng ta rèn giũa phát triển năng lực công phu thật sự của mình. Tu hành công phu phải ngày một tiến lên, có công phu sâu thì khi ra ngoài đối người tiếp vật tâm chúng ta mới có sức định, khó bị cảnh duyên lay chuyển, gây nhiễm ô. "Được vãng sanh hay không là do có Tín Nguyện hay không? Phẩm vị cao hay thấp là do trì danh sâu hay cạn!" - lời Chư Tổ Sư dạy.

- Việc tu hành nên tùy nghi phương tiện, không ai giống ai, mỗi cá nhân, tập thể có thể áp dụng phương pháp hành trì thời khóa công phu hàng ngày sao cho phù hợp căn cơ hoàn cảnh của mình, miễn là phương pháp nào đem lại hiệu quả tốt nhất cho chúng ta thì áp dụng.

- Cuối cùng, xin đừng xem nhẹ phương pháp có vẻ bình dị tầm thường này mà bỏ qua thì thật là tiếc lắm thay!

 

TP Hồ Chí Minh, 2023

 

sx11

 

Lời Phật Lời Tổ

Yếu đạo để ra khỏi sinh tử, không gì hơn vãng sinh Tịnh Độ. Hạnh tu để vãng sinh Tịnh Độ tuy nhiều, không gì hơn Xưng Danh. Vì đó là hạnh của Di Đà Bổn Nguyện. Bởi vậy Hòa Thượng Thiện Đạo dạy rằng:
"Kinh VÔ LƯỢNG THỌ chép: "Khi tôi thành Phật, nếu mười phương chúng sinh xưng danh hiệu của tôi, dù chỉ mười lần mà không được vãng sinh thì tôi chẳng ở ngôi Chánh Giác". Đức Phật kia hiện tại thế thành Phật. Nên biết rằng Bổn Nguyện Trọng Thệ chẳng hư dối. Chúng sinh xưng niệm, tất nhiên được vãng sinh." Do đó ngoài xưng danh không cần quán tưởng gì khác.
Hiểu và tin như trên, lâm chung chắc chắn Phật lai nghinh. Nếu bình thường đã xưng danh tích lũy công đức thì dù cho lúc lâm chung không xưng được Phật Danh vẫn quyết định vãng sinh.

____________________________

"Nếu bình thường đã xưng danh tích lũy công đức thì dù cho lúc lâm chung không xưng được Phật Danh vẫn quyết định vãng sinh": Thì đương nhiên phải là như thế, bởi nếu không phải thế thì làm sao 'lâm chung chắc chắn Phật lai nghinh' cho được, tức là trong bất cứ trường hợp nào thì cũng đều được Phật lai nghinh tiếp dẫn. Sự vi diệu của Pháp môn là như vậy.

Còn như trong quá trình tu học mà hay gặp những nghiệp khổ bức bách này kia, đó là do đâu? Đó chính là do thiếu sự che chở, gia trì của Phật lực, cho nên oan gia trái chủ mới 'tác oai tác quái' như vậy. Chúng ta ai chẳng có nghiệp chướng trùng trùng chồng chất từ đời này qua kiếp khác sao kể hết được, mà tu trì ít ỏi ngắn ngủi đời này thì tiêu trừ được mấy, sao hết được. Cho nên một khi phát tâm cầu giải thoát cái thì nghiệp chướng chiêu cảm bủa vây ra sức phá hoại, ngăn cản đường tu. Bởi vậy hành giả mà thiếu Tín Nguyện thì thường phải 'lãnh đủ' thôi, thậm chí càng về già, tu càng lâu lại càng bị bức bách mạnh, do càng đến ngày 'kết sổ' nên họ càng ra sức hoành hành. Bởi vậy nếu thiếu đi Phật lực che chở cho trong suốt hành trình này thì thật sự rất gian nan nguy hiểm. Mà cái 'Phật lực' vừa nói đây là ý nói Phật Nguyện lực từ Di Đà Bổn Nguyện [Đại Nguyện 18] chứ chẳng phải từ những Nguyện khác [từ nghe, niệm Phật thông thường], bởi cái 'Phật Nguyện lực' này mới thật sự mạnh mẽ vô song, chứ còn từ các Nguyện khác thì không rốt ráo viên mãn.

Pháp Nhiên Thượng Nhân

Phương Pháp Hành Trì

Các Bài Pháp Nổi Bật

"Tự Mình Chẳng Về, Về Liền Được; Gió Trăng Quê Cũ Há Ai Giành?"

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh
    (năm Dân Quốc 22 - 1933)

    Đã ăn chay trường niệm Phật, [vẫn cần] hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể...
    Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp?

  • Quanh Năm Niệm Phật

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao

    Nhận được thư ông từ ba hôm trước, biết lệnh lang là Hà Sanh đã niệm Phật vãng sanh. Tuy về Thế Đế, tựa hồ [đó là] chuyện bất hạnh, nhưng vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao. 

  • Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

  • Mô tả

    Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

    1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.

  • Chứng Bất Thoái Ngay Trong Hiện Đời

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Pháp Môn Vừa Cực Khó Vừa Cực Dễ

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh

    Ông đã biết lợi ích của việc niệm Phật thì từ rày hãy nên gắng công hơn để tự được nhất tâm. Nhưng một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh, chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực để vãng sanh.

  • Đắc Đà-Ra-Ni

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Chiếu Tột Mười Phương

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Hễ Có Tín Nguyện Thì Không Một Ai Chẳng Được Thấm Nhuần, Viên Đốn Thẳng Chóng

  • Mô tả

    Luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu

    Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo đó thôi! Nhưng vì chúng sanh căn cơ bất nhất, khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp diệu minh, nếu không phải là người túc căn thành thục lại muốn ngay trong một đời này hoàn thành thì thật là hiếm có mấy ai.

  • Gia Ngôn Lục

    Đời Thanh, Hoàng Vĩnh Tước ở Sùng Minh được thầy bói đoán quyết ông ta chẳng có con, chỉ thọ sáu mươi tuổi. Về sau, có một chiếc thuyền ở Nam Dương gặp gió sắp bị lật, họ Hoàng vội bỏ ra mười lạng bạc thuê thuyền đánh cá ra cứu. Mười ba mạng đều sống sót. Gặp lại thầy bói, ông ta kinh hãi bảo: “Mặt ông toàn là nét âm chất, ắt có đức dầy. Không chỉ là sẽ có con, mà còn đỗ Trạng Nguyên, và cũng được thượng thọ”. Về sau quả nhiên sanh con trai, đặt tên là Chấn Phượng. Đỗ đầu khoa thi Hội năm Kỷ Mùi (1679) đời Khang Hy, thọ chín mươi mấy tuổi, chết an lành. Đạo trời đáng tin cậy dường ấy, sao con người chẳng bỏ ác làm lành vậy?
    Đồ Phan Kỳ ở Tú Thủy, làm nhiều chuyện bất nghĩa, xúi người khác kiện cáo để đoạt tài vật của họ, gian dâm vợ con kẻ khác. Gặp chuyện chẳng vừa ý nhỏ nhặt, bèn oán hận chửi bới trời, thần. Bỗng chết đi, qua một đêm bèn tỉnh lại, gọi vợ kêu mọi người đến, bảo: “Diêm Vương bảo người chết chịu báo, kẻ sống chẳng biết. Kẻ thọ báo chịu khổ, kẻ tạo tác vẫn đắc chí, thật đáng buồn đau! Nay Phan Kỳ tội ác cùng cực, mượn nó để chỉ bảo muôn người”. Thế rồi vung dao tự cắt đứt dương vật nói “đây là quả báo dâm tà”. Tự khoét mắt, bảo: “Đây là báo ứng vì đã giận dữ nhìn tiên, Phật, cha mẹ và chúng sanh”. Tự chặt tay nói: “Đây là quả báo vì đã mổ xẻ sanh linh”. Mổ bụng lôi tim ra nói: “Đây là quả báo vì âm hiểm, tàn nhẫn hãm hại”. Cắt lưỡi nói: “Đây là quả báo của lừa dối, nguyền rủa, chửi bới quàng xiên”. Xa gần trông thấy, truyền tụng, ai cũng kinh sợ. Phan Kỳ quằn quại sáu ngày, thân thể không còn miếng da nào lành lặn mà chết. Tự làm, tự chịu, nhanh chóng ngần ấy.

    Cảm Ứng Thiên