Nguyện Mười Tám: "Mười Niệm Ắt Vãng Sanh" [Lần 4]

NPSTD7

 

Nguyện Mười Tám: "Mười Niệm Ắt Vãng Sanh" [Lần 4]

Chánh kinh:
Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh hiệu, chí tâm tín nhạo, sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh ngã quốc, nãi chí thập niệm, nhược bất sanh giả, bất thủ Chánh Giác; duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp.
Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi chí tâm tin ưa, tất cả thiện căn tâm tâm hồi hướng nguyện sanh cõi tôi, dẫu chỉ mười niệm, nếu chẳng được sanh thì chẳng lấy Chánh Giác. Chỉ trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp.
(Nguyện mười tám: Mười niệm ắt vãng sanh)

Giải:
Ðoạn kinh này nói về nguyện thứ mười tám: “Mười niệm ắt vãng sanh”. Các vị cổ đức thuộc Tịnh Tông Nhật Bản phán định rằng: Trong các kinh, chỉ mình kinh Hoa Nghiêm là chân thật. Nhưng nếu đem Hoa Nghiêm so với kinh này thì kinh này mới là chân. Ðem các nguyện khác so sánh với nguyện này thì nguyện này chân thật nhất, nghĩa là: Nguyện này chân thật nhất trong các nguyện chân thật.

sdvdv11155

Chúng ta trở lại với Đại Nguyện 18 "Mười niệm ắt vãng sanh". Lần này chúng ta bàn về cách thức gầy dựng Tín tâm chân thật đầy đủ đối với Bổn Nguyện tiếp dẫn này, tức làm thế nào để đạt "chí tâm tin ưa" theo như yêu cầu của Đại Nguyện này.

Trước hết chúng ta xem phần liễu nghĩa chỗ "nãi chí thập niệm" trong Bổn Nguyện này từ Chư Tổ Sư.

Trong Vãng Sanh Lễ Tán Kệ, Ngài Thiện Đạo dẫn đoạn Kinh văn này, viết:

"Kinh Vô Lượng Thọ chép: "Khi tôi thành Pht, nếu mười phương chúng sanh xưng danh hiu ca tôi, dù chỉ mười ln mà không được vãng sanh thì tôi chng ngôi Chánh Giác". Đức Pht kia hin ti thế thành Pht. Nên biết rng Bn Nguyn Trng Thchng hư di. Chúng sanh xưng nim, tt nhiên được vãng sanh." 

Như vậy "nãi chí thập niệm" ở đây đó chính là "dù chỉ mười ln [niệm]" như trong phần liễu giải của Ngài Thiện Đạo, chứ chẳng phải là mười niệm lúc lâm chung như nhiều người nghĩ. Bởi vậy, muốn gầy dựng Tín tâm chân thật thì trước hết phải hiểu cho đúng ý nghĩa Kinh văn của Bổn Nguyện cái đã.

Với hành giả Tịnh Độ, vấn đề gầy dựng Tín tâm chỉ đơn giản đó là hành giả chỉ cần làm sao tin chắc chẳng nghi Di Đà Bổn Nguyện này, thế là đủ, chẳng cần dài dòng văn tự chi cho mệt. Còn vì sao như vậy thì phần dưới chúng ta sẽ rõ. Cho nên các Ngài mới nói hành giả Tịnh Độ chỉ cần 'không nghi Di Đà Bổn Nguyện' thì lâm chung chắc chắn Phật lai nghinh tiếp dẫn về Cực Lạc, bất luận lúc cuối như thế nào. Cho nên nhiện vụ của hành giả Tịnh Độ là bằng một phương cách nào đó để gầy dựng cho được việc tin chắc chẳng nghi Di Đà Bổn Nguyện, thế là đủ. Mà việc này có quá khó hay vượt tầm với gì không? Thật sự ra thì có gì đâu mà quá khó? Phật tuyên thệ như thế, chúng ta chỉ việc tin tưởng, thế là xong. Phật tuyên thế nào thì chúng ta tin thế ấy, đừng suy diễn thêm bớt gì cả, tức phải hiểu cho đúng chính xác ý nghĩa của Kinh văn Bổn Nguyện cái đã, rồi sau đó mới bắt đầu gầy dựng Tín tâm, cụ thể là chỗ "nãi chí thập niệm" phải hiểu cho đúng, không được cho rằng đó là mười niệm dành cho lúc lâm chung.

Rồi đến phần gầy dựng Tín tâm, bước đầu tiên là chúng ta đừng bận tâm Phật tuyên thệ cái gì cả, bởi Phật tuyên cái gì đi nữa thì rốt cuộc Bổn Nguyện cũng đã thành tựu, không hư dối. Cho nên đừng bận tâm đến nội dung Phật tuyên cái gì cả, bởi điều này sẽ khiến chúng ta trở nên khó tin, khó phát khởi được Tín tâm chân thật chẳng nghi [chỗ "nãi chí thập niệm"]. Bởi cái nội dung đó có là gì đi nữa thì cũng vậy thôi, đó là việc của Phật, không phải của chúng ta, và [cái nội dung đó] đã thành tựu, chân thật, không hư dối [bất luận nó là gì]. Cho nên tốt nhất khi bắt đầu gầy dựng Tín tâm với Bổn Nguyện thì không nên bận tâm đến nội dung Bổn Nguyện nói gì, bởi đơn giản đây là việc thừa thải, không cần thiết, ngoài phận sự của chúng ta, như vậy để tâm đến cái nội dung bên trong đó để làm gì? Cho nên, hầu như hành giả bị 'mắc kẹt' ở chỗ này, cứ là nghĩ tưởng đến cái nội dung đó, rồi ra sức gầy dựng Tín tâm [đối với nội dung đó, chỗ "nãi chí thập niệm"]. Bởi vậy đây là việc hoàn toàn dư thừa không cần thiết, và chỉ gây chướng ngại cho vấn đề gầy dựng phát khởi Tín tâm mà thôi. Bởi không lẽ Phật tuyên thế này [nội dung dễ tin] thì chúng ta tin ngay, còn Phật tuyên thế khác [nội dung khó tin] thì chúng ta chẳng chịu tin ư? Trong khi đó hoàn toàn là công việc của Phật [và đã thành tựu viên mãn rồi], chứ có phải việc của chúng sanh đâu mà suy lường với tính toán [khó tin, dễ tin] này kia?! Vậy nhiệm vụ của chúng ta là gì? Đó là phải Tin cái Bổn Nguyện này là chân thật, không hư dối, thế là đủ, còn cái nội dung bên trong đó bất luận là gì đi nữa, chúng ta không quan tâm [bởi cũng chắc chắn chân thật, chẳng thể hư dối được]. Đó chính là cái bước gầy dựng để "không nghi Di Đà Bổn Nguyện" vậy. Về lý thuyết, phương pháp là thế, nhưng gầy dựng để có được Tín tâm chân thật chẳng nghi đối với Di Đà Bổn Nguyện này chắc chắc sẽ mất một thời gian khá dài cho hành giả chứ chẳng ít đâu [có thể hàng tháng, hàng năm...]. Nhưng rõ ràng với phương pháp này thì có lẽ không ít người gầy dựng được, thật sự vậy, không chóng thì chày thôi, nếu đủ kiên trì và quyết tâm. Bởi xuất phát từ cái Lý hiển nhiên mà các Ngài đã chỉ dạy cho chúng ta, đó là "Đức Pht kia hin ti thế thành Pht. Nên biết rng Bn Nguyn Trng Thệ chng hư di. Chúng sanh xưng nim, tt nhiên được vãng sanh", như thế thì Bổn Nguyện đã thành tựu, chân thật, chẳng hư dối. Bởi nếu Bổn Nguyện là hư dối hay chưa thành tựu thì Phật làm sao thành Phật cho được? Rồi đến bước tiếp theo, một khi đã gầy dựng được Tín tâm tin chắc chẳng nghi Di Đà Bổn Nguyện rồi [với ý nghĩa đúng theo Kinh văn] thì cũng sẽ tin chắc chẳng nghi Phật sẽ rước ta, hai cái [Tín tâm] này thật ra chỉ là một mà thôi, bởi một khi có Tín tâm chân thật đối với Bổn Nguyện rồi thì đương nhiên 'chúng sanh xưng niệm tất nhiên được vãng sanh' [do từ chỗ "nãi chí thập niệm"], tức là cũng tin chắc chẳng nghi Phật sẽ rước ta, hành giả niệm Phật [Tín tâm chân thật đầy đủ, "chí tâm tin ưa"]. Dạ vâng, việc gầy dựng Tín tâm chân thật đầy đủ chỉ cơ bản theo từng bước là như vậy, chẳng có gì nữa cả. Chúng ta đừng xem thường cái phương pháp đơn giản này, nó ẩn chứa nhiều cái nguyên lý thâm sâu bên trong đó, chỉ những hành giả nào chân thật thực hành hay đã trãi trường qua nhiều thời gian gầy dựng rồi [tức trãi qua nhiều cái gầy dựng thất bại rồi] mới cảm nhận được giá trị, thật sự rằng chẳng hề đơn giản chút nào để có được những đúc kết như thế này, dựa trên nền tảng những lời dạy của Chư Phật cùng các Chư Tổ Sư vậy.

Còn như ai muốn có cái Pháp nào đơn giản hơn, như chẳng cần gầy dựng Tín tâm gì cả luôn, chỉ chú trọng hành trì dụng công, như thế cũng không phải không có cơ hội thành tựu, nhưng đành phải trông cậy vào Pháp Biên Địa lúc cuối thôi, với đầy rẫy phức tạp rủi ro và bất định vậy. 

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 6. Phát Đại Thệ Nguyện

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Lời Phật Lời Tổ

Người Niệm Phật mà có lòng cầu vãng sinh và không nghi Di Đà Bổn Nguyện thì khi lâm chung không bị điên đảo. Sở dĩ được như vậy là nhờ Phật lai nghinh.
Phật lai nghinh là để người tu Niệm Phật lúc lâm chung được chánh niệm, chứ không phải lúc lâm chung cần phải chánh niệm thì Phật mới lai nghinh.
Người không biết nghĩa nầy đều cho rằng lúc lâm chung cần phải chánh niệm Niệm Phật, Phật mới lai nghinh. Kiến giải như vậy là không tin vào Phật Nguyện và cũng không hiểu kinh văn nữa.

Pháp Nhiên Thượng Nhân

Phương Pháp Hành Trì

Các Bài Pháp Nổi Bật

"Tự Mình Chẳng Về, Về Liền Được; Gió Trăng Quê Cũ Há Ai Giành?"

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh
    (năm Dân Quốc 22 - 1933)

    Đã ăn chay trường niệm Phật, [vẫn cần] hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể...
    Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp?

  • Quanh Năm Niệm Phật

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao

    Nhận được thư ông từ ba hôm trước, biết lệnh lang là Hà Sanh đã niệm Phật vãng sanh. Tuy về Thế Đế, tựa hồ [đó là] chuyện bất hạnh, nhưng vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao. 

  • Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

  • Mô tả

    Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

    1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.

  • Chứng Bất Thoái Ngay Trong Hiện Đời

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Pháp Môn Vừa Cực Khó Vừa Cực Dễ

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh

    Ông đã biết lợi ích của việc niệm Phật thì từ rày hãy nên gắng công hơn để tự được nhất tâm. Nhưng một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh, chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực để vãng sanh.

  • Đắc Đà-Ra-Ni

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Chiếu Tột Mười Phương

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Hễ Có Tín Nguyện Thì Không Một Ai Chẳng Được Thấm Nhuần, Viên Đốn Thẳng Chóng

  • Mô tả

    Luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu

    Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo đó thôi! Nhưng vì chúng sanh căn cơ bất nhất, khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp diệu minh, nếu không phải là người túc căn thành thục lại muốn ngay trong một đời này hoàn thành thì thật là hiếm có mấy ai.

  • Gia Ngôn Lục

    Cậy ta mạnh, hiếp đáp kẻ yếu, sợ rằng chẳng đúng lý! Ăn thịt kẻ khác để bồi bổ thân mình, sao lại nỡ lòng? Do vậy, trời cao rủ lòng thương xót, cổ thánh bủa lòng nhân, Thành Thang tháo lưới giăng bẫy, Tử Sản đề xướng nuôi cá. Thánh thay, trưởng giả Lưu Thủy, dùng túi đựng nước suối giúp đỡ bọn cá đang bị khô hạn. Từ bi thay đức Thích Ca, lãnh nguy vong [giùm chim bồ câu] bèn tự cắt thịt. Thiên Thai Trí Giả đào ao phóng sanh. Đại Thụ tiên nhân bảo vệ những con chim đậu trên thân. Chuộc những loài có vảy mà đắc độ, lòng yêu thương của Thọ thiền sư (ngài Vĩnh Minh Diên Thọ) còn đó.

    Do cứu rồng con mà được truyền phương thuốc, phong thái từ bi của Tôn Chân Nhân chẳng mất. Cứu sống kiến, sa-di đổi đoản mạng thành trường thọ, thư sinh đổi hạng kém thành đỗ bậc thượng. Do thả rùa, Mao Bảo gặp nguy mà thoát nạn, Khổng Du chức kém mà được phong hầu. Khuất Sư thả cá chép tại Nguyên Thôn, tăng thọ mười hai năm. Tùy Hầu giúp rắn ở ngoài đồng nước Tề, được báo đáp viên châu ngàn vàng. Cứu con ruồi suýt chết đuối, người thợ làm rượu được miễn án tử hình. Thả con ba ba sắp bị nấu, đứa tớ gái nấu bếp bệnh ngặt được lành. Chuộc mạng con vật sắp bị giết từ nhà đồ tể, Trương Đề Hình hồn siêu thăng thiên giới. Đổi mạng thừa nơi ghe câu cá, Lý Cảnh Văn giải độc bằng đan sa. Tôn Lương Tự giải trừ mối nguy do bị chằng buộc [trong bẫy rập], cho nên được loài chim tìm giùm đất an táng tốt đẹp. Huyện lệnh họ Phan lập lệnh cấm giăng lưới bắt cá trên sông hồ, lúc bị đổi đi trấn nhậm nơi khác, thủy tộc khóc gào đau xót. Cụ Đạo Tín cứu con vật sắp bị giết bởi ngu dân để cúng tế, điềm lành ứng hiện, trời tuôn mưa ngọt. Ngài Tào Khê (Huệ Năng) giữ lưới thợ săn, đạo thống vượt trỗi Thần Châu (Trung Hoa) (...). Xin nguyện khắp mọi người, hễ thấy những con vật, hãy phát tâm từ bi, bỏ ra tiền tài chẳng kiên cố, để làm chuyện thuận lợi, hoặc là tạo ân giúp đỡ nhiều mạng, tích lũy âm công to tát. Nếu ban ơn cho một con trùng, có lẽ nào cũng chẳng phải là một việc thiện ư? (...)

    Nếu lại còn giúp [những con vật mắc nạn ấy] xưng niệm Phật hiệu và tụng Kinh văn, vì chúng hồi hướng Tây Phương, khiến cho chúng được vĩnh viễn lìa khỏi ác đạo. Ôm tấm lòng càng to, gieo bồi đức càng sâu. Đạo nghiệp nhờ đó mà chóng thành, sẽ sanh về phẩm vị thù thắng nơi đài sen!

    Cảm Ứng Thiên