Nguyện Mười Tám: "Mười Niệm Ắt Vãng Sanh" [Lần 3]

NPSTD7

 

Nguyện Mười Tám: "Mười Niệm Ắt Vãng Sanh" [Lần 3]

Chánh kinh:
Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh hiệu, chí tâm tín nhạo, sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh ngã quốc, nãi chí thập niệm, nhược bất sanh giả, bất thủ Chánh Giác; duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp.
Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi chí tâm tin ưa, tất cả thiện căn tâm tâm hồi hướng nguyện sanh cõi tôi, dẫu chỉ mười niệm, nếu chẳng được sanh thì chẳng lấy Chánh Giác. Chỉ trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp.
(Nguyện mười tám: Mười niệm ắt vãng sanh)

Giải:

(...) Trong chữ Hồi Hướng thì “hồi” (回) xoay chuyển, “hướng” (向) hướng đến; hồi chuyển công đức mình đã tu để hướng đến điều mình mong mỏi thì gọi là “hồi hướng”. Sách Hoa Nghiêm Ðại Sớ Sao, quyển hai mươi ba có ghi: “Hồi là chuyển, Hướng là hướng đến. Chuyển vạn hạnh của chính mình để hướng đến ba chỗ nên gọi là hồi hướng... Ba chỗ là chúng sanh, Bồ Ðề và Thật Tế”.
Vãng Sanh Luận Chú, quyển hạ cũng bảo: “Hồi hướng là đem công đức của chính mình thí cho khắp các chúng sanh đều cùng được thấy A Di Ðà Như Lai, sanh về cõi An Lạc”. Ðây chính là ý nghĩa của hai chữ “hồi hướng” trong lời nguyện.
“Nguyện sanh ngã quốc” (Nguyện sanh cõi ta) chính là lời hồi hướng: Nguyện cho hết thảy chúng sanh đều vãng sanh cõi nước Cực Lạc. “Mười niệm” là như kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy: “Cụ túc thập niệm, xưng Nam Mô A Di Đà Phật” (Ðầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Ðà Phật). Sách Tiên Chú giảng: “Mười lần xưng danh”. Ngài Vọng Tây bảo: “Trong khoảng mười niệm, chuyên xưng danh hiệu Phật thì là mười niệm. Chữ ‘niệm’ ở đây là xưng Nam Mô A Di Ðà Phật. Ðọc hết sáu chữ ấy là một niệm”.

Ý nghĩa câu này được các kinh, luận giảng như nhau. “Nãi chí thập niệm” (Dẫu chỉ mười niệm) ý nói: Tối thiểu chỉ xưng niệm danh hiệu mười niệm cũng được vãng sanh. Ðây là nói về mức độ thấp nhất nên bảo là “nãi chí”, nếu có thể niệm nhiều hơn thì càng niệm được càng nhiều càng tốt. (...)

  

wltb115

 

Chúng ta trở lại với Đại Nguyện này, Bổn Nguyện tiếp dẫn chúng sanh của Phật. Trong 48 Đại Nguyện của Phật thì có 4 Đại Nguyện tiếp dẫn chúng sanh về cõi Phật, đó là "Mười niệm ắt vãng sanh", "Nghe danh phát tâm" [Nguyện 19], "Sám hối được vãng sanh" và "Nhàm chán thân nữ chuyển thân nam". Trong đó Đại Nguyện này là trung tâm của 4 Đại Nguyện đó, tức là tất cả các bộ phận thứ lớp chúng sanh trong các Đại Nguyện kia đều gồm thâu đầy đủ trong Đại Nguyện này, ngoài ra còn bao hàm các thứ lớp khác nữa [mà các Đại Nguyện kia không có]. Hay nói cách khác là Đại Nguyện này bao hàm tất cả các bộ phận thứ lớp chúng sanh trong khắp Pháp giới, còn ba Đại Nguyện kia chỉ giới hạn ở những thứ lớp nhất định nào đó mà thôi. Cho nên các Ngài còn gọi Đại Nguyện này là Hồng tâm trong cả 48 Đại Nguyện. Chúng ta học tập Đại Nguyện này là đã đầy đủ, không thiếu sót [bộ phận] gì nữa rồi. Bởi vậy tu học Tịnh Độ mà không lấy Đại Nguyện này làm trọng tâm đường lối để tu học [tức Tông chỉ tông yếu của Pháp môn, như Chư Tổ Sư các Ngài chỉ dạy] thì quả là một thiếu sót quá lớn vậy!

Lần này chúng ta chỉ lược trích một phần nhỏ trong sách Chú Giải, ở một số chỗ quan trọng như "hồi hướng", "mười niệm", "nãi chí"..., chúng ta cùng đọc để nắm rõ hơn. Chỗ các Ngài trích dẫn giải thích đoạn: "“Mười niệm” là như kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy: “Cụ túc thập niệm, xưng Nam Mô A Di Đà Phật” (Ðầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Ðà Phật)", chúng ta cần nên hiểu một cách 'liễu nghĩa', tức xưng 6 chữ Nam Mô A Di Đà Phật hay 4 chữ A Di Đà Phật đều được cả. Chúng ta đừng nên chấp chặt vào văn tự một cách thái quá [Phật dạy "Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa"]. 

Các đoạn còn lại nếu ai muốn đọc tham khảo học tập thêm thì đọc trong sách Chú Giải vậy. Lần này chúng ta tiếp tục học tập luận bàn về việc gầy dựng Tín Nguyện tâm làm sao cho đạt được như Kinh nói bên trên là "chí tâm tin ưa", được như thế thì chúng ta mới thật sự là hành đúng như lời Phật thuyết trong Kinh vậy.

Chúng ta đã được biết, qua Kinh giáo, trước tác của Chư Phật, Chư Tổ Sư, có một số cách để gầy dựng Tín tâm chân thật. Ở đây, chúng ta tiếp tục luận bàn đến cách đầu tiên [tạm gọi cách 1], như Ngài Thiện Đạo chỉ dạy:

"Kinh Vô Lượng Thọ chép: "Khi tôi thành Pht, nếu mười phương chúng sinh xưng danh hiu ca tôi, dù chỉ mười ln mà không được vãng sinh thì tôi chng ở ngôi Chánh Giác". Đức Pht kia hin ti thế thành Pht. Nên biết rng Bn Nguyn Trng Thệ chng hư di. Chúng sinh xưng nim, tt nhiên được vãng sinh."

Một trong những vấn đề chúng ta cần quan tâm nhất, đó là Mười Niệm mà Đức Phật nói bên trên là mười niệm lúc nào? Lúc lâm chung hay lúc bình thời? Chúng ta được biết trong Quán Kinh, hạng bét Hạ phẩm hạ sanh, lúc lâm chung mới bắt gặp Chánh Pháp, được thiện tri thức khai thị, phát khởi tín tâm niệm mười niệm liền được Phật rước. Từ đó biết rằng, mười niệm này là mười niệm dành cho hạng bét Hạ phẩm hạ sanh. "Nãi chí thập niệm", tức "Dẫu chỉ mười niệm" [dành cho hạng bét]. Như vậy thì với những hạng chúng sanh khác thì sao, tức các dạng phát tâm sớm hơn, thì điều kiện ở đây là gì? Mười niệm, hơn mười niệm hay là bao nhiêu? Chúng ta được biết rằng Bổn Nguyện mà Phật phát ra đây là dành cho tất cả chúng sanh trong khắp Pháp giới, "Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh" và hơn hết đó là tất cả đều bình đẳng thọ nhận trong giáo pháp của Chư Phật. Cho nên, hạng bét thọ nhận "mười niệm tất sanh" thì các hạng khác cũng y hệt như thế, "mười niệm ắt vãng sanh", không hề sai khác gì cả. Chứ còn nếu một đằng nhận lãnh [pháp] "mười niệm vãng sanh", một đằng phải 'mười một niệm' hay 'hai mươi niệm' thì sao gọi là bình đẳng cho được! Cho nên, "mười niệm ắt vãng sanh" là [điều kiện] dành cho tất cả chúng sanh trong Pháp giới, chẳng giới hạn ở hạng chúng sanh nào cả! Tiếp tục, vậy còn thời gian thì sao? Hạng bét niệm mười niệm này lúc lâm chung rồi ra đi theo Phật luôn, vậy còn những hạng khác phát tâm sớm hơn thì sao? Nhất định phải có mười niệm này lúc lâm chung hay bất luận lúc nào cũng được? 

Chúng ta thấy rằng, những hạng khác, phát tâm sớm hơn, tức là đã niệm hơn mười niệm rất nhiều, nhưng nếu bắt buộc phải niệm được mười niệm cuối lúc lâm chung [giống như hạng bét kia] thì mới được Phật rước, vậy thì việc hành trì dụng công cả đời trước đó để làm gì, chẳng được tính tới sao? Sẽ có ý kiến cho rằng là để 'huân tập' [cho thuần thục] để đến lúc lâm chung niệm được. Dạ vâng, nếu chỉ đơn giản là vậy thì phần thiện căn, công đức [cả đời huân tập] để làm gì đây? Niệm Phật [cả đời] chỉ để 'huân tập' thôi sao, còn phần thiện căn công đức thì chẳng được tính tới gì cả chăng? Thật ra hạng thấp nhất này chẳng qua vì hoàn cảnh nhân duyên nên họ chỉ niệm được như thế [vẫn đủ để Phật rước], chứ chẳng phải họ cố đợi đến lúc cuối mới niệm bao nhiêu ấy! Hơn nữa như bên trên đã phân tích, "mười niệm ắt vãng sanh" là dành cho tất cả, ấy là xét về vấn đề thiện căn, công đức, chứ chẳng phải đề cập đến những vấn đề nào khác. Cho nên, "mười niệm ắt vãng sanh" ở đây là dành cho tất cả chúng sanh, bất luận thời gian, nơi chốn, hoàn cảnh nhân duyên...

Đến đây mới thực sự đi vào vấn đề quan trọng, đó là tuy hạng bét phát tâm muộn, lâm chung chỉ niệm được mười niệm, nhưng tâm lực lúc đó của họ là như thế nào? Dạ vâng, chắc chắc họ đã đạt đến "chí tâm tin ưa", "bất sanh nghi hoặc" như Kinh nói. Do hoàn cảnh nhân duyên [như thế] giúp họ phát khởi được tín tâm chân thật, tức đúng như Kinh giáo chỉ dạy [tức y giáo phụng hành] và được Phật rước. Vấn đề của các hạng khác [trong đó có chúng ta] là phải làm sao đạt được tâm lực đó mới được. Họ tuy phát tâm muộn, niệm ít, nhưng tâm lực [Tín Nguyện] đầy đủ, nên được Phật rước, còn chúng ta đây tuy phát tâm sớm, niệm nhiều hơn, nhưng làm sao đảm bảo có được tâm lực như thế, rồi gìn giữ, hành trì đến cuối đời đây? Đó chính là mấu chốt cho việc học tập, gầy dựng của chúng ta vậy.

Như phân tích bên trên, vấn đề "mười niệm tất sanh" này là Pháp Phật dành cho tất cả chúng sanh, không phân biệt, không sai khác; và cũng không luận thời gian, nơi chốn, hoàn cảnh, nhân duyên hay bất cứ thứ gì khác cả [chứ không phải là nhất thiết lúc lâm chung, chỗ này chúng ta sẽ bàn thêm phía sau]. Lúc lâm chung niệm Phật rồi ra đi đó chỉ là [một trong những] hình tướng của người được vãng sanh mà thôi, chứ chẳng phải đó là điều kiện [ắt phải có] để được Phật rước. Chúng ta hay bị nhầm lẫn chỗ này! Cứ thấy các gương vãng sanh toàn là niệm Phật đến lúc cuối rồi đi theo Phật về Tây Phương rồi [nhận định] cho rằng lúc cuối phải niệm được câu Phật hiệu, là điều kiện ắt phải có, để được Phật rước. Rồi cứ dựa trên luận điểm này cả đời huân tập hành trì chỉ cốt sao cho thực hiện được điều này [lúc cuối niệm được câu Phật hiệu], như thế mới chắc được Phật rước. Như đã từng đề cập nhiều lần, đây chính là cách tu Tịnh Độ 'nửa vời', tức là nương vào Phật lực 'nửa vời'! Nếu ai có tư tưởng này [chiếm phần lớn] thì không thể thoát khỏi việc cậy vào Pháp Hộ Niệm lúc cuối. Rồi nhỡ một khi lúc đó chẳng đủ nhân duyên để được hộ niệm hay hộ niệm không đúng như pháp thì sao đây? Oan uổng cho cả một đời [tinh tấn] hành đạo, lầm lỡ cho một nhân duyên thù thắng được bắt gặp Chánh Pháp này!

Chúng ta cần biết rằng, nếu tu đúng như pháp, tức Y giáo phụng hành lời Phật dạy, gìn giữ cả một đời như thế, thì đến lúc cuối sẽ được Nguyện lực của Phật từ bi che chở, gia hựu cho, như thế sẽ không bị nghiệp lực chi phối, làm cho khổ đau, bức bách, thần trí bị mê mờ hay bấn loạn gì cả. Tâm trí luôn được tỉnh táo sáng suốt mà niệm được câu Phật hiệu rồi theo Phật về Tây. Hơn nữa lúc đó dẫu cho trường hợp nghiệp nặng, miệng lưỡi cứng đờ không niệm được đi nữa, nhưng do cả đời hành trì [đúng pháp] nên lúc đó thần trí bên trong vẫn tỉnh táo sáng suốt [nhờ Phật lực từ bi gia hộ khiến linh tâm bất loạn], rồi vẫn được Phật đến rước trở về Tây Phương vậy. Thế cho nên Chư Tổ Sư các Ngài mới cực lực khuyên lơn rằng hãy gầy dựng Tín Nguyện tâm [đầy đủ] ngay từ lúc bình thời này đi, như thế thì cả một đời hành trì đúng Chánh Pháp, y giáo phụng hành, như thế mới đảm bảo được. Đừng để 'nước đến chân mới nhảy' thì 'nhảy' không kịp đâu! Bởi đâu biết 'nước đến chân' là lúc nào, với lại việc trọng yếu như thế kia mà khi còn khỏe mạnh minh mẫn, năm rộng tháng dài lại chẳng chịu huân tập gầy dựng lại đợi đến lúc cuối khi tất cả mọi thứ [như thời gian, tâm trí, sức lực, nhân duyên...] đã suy kiệt mới thọ trì ư? Chưa kể vào ngày 'ba mươi tháng chạp' ấy các 'chủ nợ' [oan gia] đến bủa vây bức bách đòi nợ nữa... Rồi cả đời đã huân tập kiểu 'hữu sanh nghi hoặc' rồi, đã ăn sâu vào tiềm thức rồi thì lúc cuối liệu phát khởi được điều gì [khác hơn] đây? Khó lắm! Thà như 'tờ giấy trắng', tức những người mới, nếu có chút thiện căn cùng nhân duyên tốt lành gặp gỡ, họ còn dễ dàng phát khởi được Tín tâm chân thật hơn! Các ca Hộ Niệm có kết quả thù thắng thường rơi vào những trường hợp này [còn dạng đến hộ niệm, trợ duyên cho những người đã có Tín Nguyện đầy đủ thì không cần tính tới]. Bởi, một khi Tín Nguyện chẳng đầy đủ thì chỉ còn trông cậy vào Pháp Biên Địa Nghi Thành thôi. Phật nói trong Kinh đó là Pháp "do liên tục nhớ nghĩ không thôi kết thành thiện nguyện cũng được vãng sanh". Pháp này thường rơi vào những trường hợp tu Tịnh Độ thời gian đã dài lâu [và phải tu rất tốt nữa], nhưng Tín tâm chẳng đầy đủ, chủ yếu do không bắt gặp được nhân duyên Chánh Pháp một cách đầy đủ chính xác hoặc được bắt gặp song chẳng chịu gầy dựng, do cho là không quan trọng, lơ là trong việc gầy dựng Tín Nguyện tâm. Dạng này thực tế lại chiếm một 'thị phần' đông đảo, nếu không muốn nói là chiếm phần lớn trong giới tu học Tịnh Độ hiện nay. Cho nên dạng này nếu tu tốt lúc cuối được hộ niệm đầy đủ thì hy vọng thực hiện được cái Pháp mà các ban Hộ Niệm thường nói, đó là lâm chung đầu óc phải tỉnh táo sáng suốt, niệm được câu Phật hiệu đến cuối cùng thì sẽ được Phật đến rước. Tức Phật đến rước sau khi đã tắt hơi. Chứ không phải như dạng Tín Nguyện đầy đủ, có thể thấy Phật đến tiếp dẫn khi hãy 'còn sống', tức khi chưa tắt hơi. Dạng này ra đi rất tự tại, có thể được Phật báo trước ngày giờ hay không thì tùy nhân duyên, tu tập thôi [chứ chẳng phải tùy ở mức độ công phu đâu nhé, mà điều này có hay không chẳng quan trọng!], lúc ấy hành giả chỉ việc niệm Phật [hay miệng chẳng niệm nổi cũng không sao cả] rồi an tường theo Phật về Tây, bởi lúc ấy Phật cùng Thánh chúng đã đến và đang đợi để tiếp dẫn chúng sanh trở về, nhất định vào được Chánh Quốc. Đó là do nhờ đã có cảm ứng đạo giao từ trước rồi vậy.

Bởi vậy các ban Hộ Niệm thường hay có những kiến giải sai lầm rằng, lúc cuối đầu óc phải tỉnh táo, niệm được câu Phật hiệu đến cuối cùng thì mới được Phật đến rước. Thật ra đây chỉ là trường hợp của Pháp Biên Địa Nghi Thành thôi, tức dành cho những người Tín tâm chẳng đầy đủ [cả bình thời lẫn lúc cuối cũng chẳng phát khởi được] nên đành cố gắng nương vào Pháp này thôi chứ biết làm sao bây giờ! Nhưng việc trông cậy vào Pháp này thật sự là quá rủi ro và nhiều nguy hiểm, bởi lúc cuối không được Phật lực gia hựu, che chở cho [do không có cảm ứng đạo giao], cho nên phải tu tập thật tốt mới may ra có hy vọng và do phải tự lực lúc cuối nên rất cần Pháp Hộ Niệm là vậy. Nhưng các ca Hộ Niệm dạng này do thiếu Phật lực gia trì nên thường rất vất vả, họ phải rất trông cậy vào các vị Thiện thần hộ pháp này kia đến gia hộ, che chở cho [cùng lực đại chúng, đồng tu, thiện tri thức...], cho nên họ đặc biệt kiêng cử những thứ gây ảnh hưởng, làm khinh xuất đến các vị ấy [như ngũ tân chẳng hạn], họ xem các vị ấy giống như 'cứu tinh' vậy, rất sợ các vị ấy không đến hay xa lánh, nhưng lại xem nhẹ chuyện có cảm ứng đạo giao cùng Phật hay không để được Phật lực che chở gia hựu cho. Đây chính là một trong những vấn đề nghiêm trọng mà các ban Hộ Niệm hiện nay hay mắc phải [có thể gọi là 'sai lầm cơ bản' vậy]. Nguyên nhân là từ đâu? Dạ vâng, đơn giản đó chính là từ những kiến giải sai lệch không đúng mà gây ra vậy. Cho nên các vị đi hộ niệm, khai thị cho người rất cần phải có Tín tâm chân thật thì ca hộ niệm mới dễ thành tựu được, còn không thì chỉ nên niệm Phật trợ duyên bên ngoài cùng đại chúng thôi. Hơn nữa, các ca dạng này nếu được sanh về cũng phải vào Biên Địa một thời gian dài. Do đó các Ngài đều không khuyến khích chúng sanh tu theo đường lối này. Chỉ những người không biết [hoặc cố tình không biết, do cái ngã chấp lớn hoặc bị tà kiến che lấp, không thay đổi được] mới hành trì như vậy thôi. Đây là do bị dính vào hai chướng nạn mà Phật đã nói trong Kinh ["kiêu" và "tà kiến"], hoặc là do thiếu thiện căn, phước đức, nhân duyên ["Nếu xa xưa không tu phước huệ thì Chánh Pháp này không thể nghe"].

Cho nên, trong tu học quan trọng là kiến giải phải cho đúng, đừng có rơi vào tà kiến này kia. Do đó đừng nên đợi đến lúc cuối [mới gầy dựng] hay trông cậy vào Pháp Hộ Niệm lúc cuối, như thế e rằng muộn mất, bởi một khi nghiệp lực 'ra tay' thì liệu có đoán trước được điều gì, nó có báo trước cho mình hay không? Cho nên thập phần nguy hiểm, rủi ro, bất định... Thật ra một khi được Phật lực gia trì [có cảm ứng đạo giao] thì không phải là không có được [người, thiện thần hộ pháp...] hộ niệm! Sự hộ niệm nhiều khi còn đông đảo, thù thắng, màu nhiệm hơn nhiều, Phật lực sẽ gia trì để 'phái' các vị ấy đến trợ duyên, đưa tiễn một đoạn đường cuối, cùng kết nhân duyên lành, cùng phát khởi tín tâm, cùng được lợi ích chân thật, tự lợi lợi tha. Nói chung sự thù thắng là vượt xa các ca 'Biên Địa Nghi Thành'!

Thật ra, như đã nói thì Pháp Hộ Niệm vẫn rất cần thiết cho những người sơ cơ, mới phát tâm hay dạng 'chưa biết gì', hoặc giả tu cả đời nhưng Tín Nguyện vẫn còn thiếu sót, chưa đầy đủ..., những dạng như thế rất cần hộ niệm lúc cuối, mà thực tế thì những dạng này lại chiếm phần đông, đại đa số. Cho nên Pháp Hộ Niệm vẫn là 'đại cứu tinh' nói chung vậy. Thật sự thì không mấy người bắt gặp được đầy đủ nhân duyên Chánh Pháp, biết rõ mục tiêu, phương hướng, đường lối tông chỉ, rồi ra sức gầy dựng, giữ gìn, hành trì cả đời, đến lúc cuối có thể tự mình ra đi [chẳng bận tâm đến việc có được hộ niệm hay không!]. Rõ ràng số này không nhiều, cho nên chúng ta cần trân quý nhân duyên bắt gặp được những lời Chư Phật, Chư Tổ Sư các Ngài chỉ dạy này. Bởi đây mới là hành đúng như pháp, y giáo phụng hành theo Kinh giáo. Pháp môn "vạn người tu vạn người về" như các Ngài nói chính là đây vậy.

Tóm lại, một khi có Phật lực gia trì, che chở thì hầu như tất cả đều có thể tỉnh táo niệm Phật rồi theo Phật về Tây, chứ chẳng phải đợi chúng sanh lúc đó có niệm được câu Phật hiệu thì Phật mới đến lai nghinh tiếp dẫn về [đây chỉ là Pháp Biên Địa]. Chúng ta hay nhầm lẫm điều này. Do đó cần phải phá bỏ đi tình chấp [tà kiến] này thì mới có khả năng gầy dựng và phát khởi tín tâm chân thật ngay từ lúc bình thời này được, tức đạt được tâm lực như trong Kinh nói là "chí tâm tin ưa, bất sanh nghi hoặc" [giống như hạng bét kia đã làm được], rồi chân thật hành trì, giữ gìn cả đời. Đó cũng chính là hành giả đang "nhất tâm cầu Tịnh Độ" như trong Kinh nói vậy [chứ chẳng phải chỉ có công phu đạt Nhất tâm bất loạn mới là "nhất tâm cầu Tịnh Độ"]. Cho nên, cần phải loại bỏ những kiến giải sai lệch, còn không dẫu cho cố công gầy dựng cả đời cũng vô ích! Bởi cái tình chấp vào cái lý 'đợi đến lúc cuối [niệm được] mới chắc ăn' thì bình thời làm sao phát khởi Tìn tâm đầy đủ, bất sanh nghi hoặc cho được! Đây chính là một trong những chướng ngại làm cho chúng sanh không thể phát khởi được Tín tâm chân thật với Pháp Phật mà Phật đã nói trong Kinh vậy. ["Ác, kiêu, biếng nhác và tà kiến; Pháp vi diệu Như Lai khó tin"].

Sau khi đã dẹp bỏ được những tà kiến sai lệch rồi, vấn đề bây giờ là gầy dựng Tín tâm như thế nào đây? Theo lời các Ngài chỉ dạy bên trên, rằng "Đức Pht kia hin ti thế thành Pht. Nên biết rng Bn Nguyn Trng Thệ chng hư di. Chúng sinh xưng nim, tt nhiên được vãng sinh". Dạ vâng, biết rằng là vậy, nhưng tâm phàm phu chúng ta vẫn chưa chịu phát khởi lên được. Lý do là đâu? Đó là vì xét trên thực tế kia, có biết bao chúng sanh đang niệm Phật cầu sanh về, hàng ngày họ niệm hàng vạn tiếng, nhưng liệu có chắc được vãng sanh hết không? Rồi bao nhiêu vị tinh tấn cả đời nhưng sao cuối cùng vãn bị trượt oan uổng, như thế sao gọi là "chúng sinh xưng nim, tt nhiên được vãng sinh"? Dạ vâng, thực tế đúng là như vậy. Nhưng chúng ta phải biết là trong bao nhiêu người niệm Phật kia thì liệu có phải tất cả họ đều đang Y giáo phụng hành [lời Phật thuyết] cả đâu? Cái này mới quan trọng! Trong Kinh Phật nói, "mười niệm ắt vãng sanh", dành cho tất cả "thập phương chúng sanh", bất luận lâm chung hay lúc nào. Liệu họ có tin điều này không? Hay là họ một mặt miệng thì niệm Phật, thân thì lễ Phật, nhưng tâm [ý] thì lại nghĩ khác [lời Phật thuyết]. Họ có thể nghĩ rằng: Niệm Phật đây nhưng chắc gì vãng sanh được? Phải công phu đạt trình độ gì gì đó, hay đợi lúc lâm chung phải niệm được mười niệm mới được, hoặc giả niệm Phật nhưng tâm địa phải thế nào đấy, hãy còn tham sân si dấy khởi thì sao được Phật rước, v.v... Như thế thì sao gọi là Y giáo phụng hành cho được. Y giáo phụng hành là phải hành [từ thân, khẩu, ý] đúng như lời trong Kinh giáo Phật thuyết mới được. Chứ còn tuy miệng niệm, thân lễ, nhưng tâm ý thì lại nghĩ tưởng khác lời Phật thuyết thì chẳng thể gọi là Y giáo phụng hành được. Phật nói phải "chí tâm tin ưa" cơ mà. Mà một khi đã chẳng Y giáo phụng hành thì đã lọt ra khỏi giáo pháp của Phật [lọt khỏi Bổn Nguyện], như thế thì làm sao cảm ứng đạo giao cho được!

Cho nên trong công cuộc gầy dựng Tín tâm đừng có nhìn vào thực tế [người này, người kia...] hay bất cứ luận thuyết nào cả, mà hãy nhìn vào chính Kinh giáo Phật thuyết ra [tức ngưỡng trông, y cứ từ Bổn Nguyện] mà phát khởi tín tâm rồi chân thật hành trì. Như thế mới chính là đang Y giáo phụng hành vậy. Chúng ta chỉ đứng về mặt Kinh giáo [cũng tức là những chúng sanh đang y giáo phụng hành] mà luận xét [để phát khởi Tín tâm], chứ tuyệt đối chẳng luận xét dưới góc độ chúng sanh nói chung. Bởi chúng sanh thì có người này người kia, đạo tâm lẫn lộn, có người Y giáo phụng hành có người thì không, cho nên kết quả đạt được không như nhau, có người thành tựu có người không. Thế cho nên Phật Thích Ca Ngài mới thêm vào giáo pháp này rằng [chúng sanh] phải "chí tâm tin ưa" [tức "bất sanh nghi hoặc"] mới được. Đó là Ngài đang đứng từ phía chúng sanh vì chúng sanh mà diễn nói Pháp vậy. Chứ còn xét từ phương diện Lời Thệ Nguyện của Phật thì đâu có cái này. Cho nên các Ngài dẫn lại lời Kinh Vô Lượng Thọ đâu cần có "chí tâm tin ưa", chỉ dạy rằng "Bổn Nguyện không hư dối" [cho nên đừng có nghi ngờ], như thế là đủ. Rõ ràng các Ngài [nhất định] phải đứng từ phương diện Lời Phật Thệ Nguyện mà phát khởi Tín tâm cho chúng sanh, như thế mới được vậy. Cho nên, để gầy dựng cho được "chí tâm tin ưa, bất sanh nghi hoặc" mà lại đi nhìn vào những thực tiễn [lẫn lộn] như thế này thế kia thì làm sao phát khởi Tín tâm chân thật cho được! Đây chính là điểm mấu chốt [có thể nói là bí quyết] để gầy dựng phát khởi Tín tâm chân thật mà các Ngài đã chỉ dạy vậy. Thật vậy, rằng chỉ nhìn, y cứ từ Lời Thệ Nguyện của Phật [ngưỡng trông, y cứ từ Bổn Nguyện] mà phát khởi Tín tâm chân thật, rồi hành trì. Còn bên ngoài [chúng sanh] họ ngưỡng trông, y cứ từ đâu đó là việc của họ. Họ nhìn, y cứ từ một tập hợp 'vàng thau lẫn lộn' [thực tế, số đông] mà 'gầy dựng' thì Tín tâm họ chắc cũng sẽ như vậy, không thể khác, không thể bức phá ra được! Thế cho nên các Ngài thường khuyên nhắc cần phải Y giáo phụng hành, cần phải 'nương tựa Bổn Nguyện' là vậy [thật sự bí quyết!]. Rằng "nãi chí thập niệm", "dẫu chỉ mười niệm" [của hạng bét] cũng thành tựu, thì các hạng khác cũng [điều kiện] y như vậy thôi không khác, chính ta cũng vậy. Chẳng thể nghi ngờ! Bởi thế, nếu Phật không rước ta thì đâm ra Bổn Nguyện hư dối ư? Không thể có chuyện đó được! Cho nên nhất định Phật phải rước ta, không thể khác được!

Cuối cùng, rằng vấn đề gầy dựng phát khởi Tín tâm cần phải được thực hiện song hành với việc hành trì, chẳng thể nói trong một sớm một chiều mà có ngay được. Điều quan trọng là phải thấy được tầm quan trọng của việc này là như thế nào thì mới chịu chân thật học tập, gầy dựng được. Thực tế cho thấy rất nhiều người siêng năng tinh tấn, nhưng chỉ chú trọng ở mặt hành trì, ít chịu gầy dựng Tín Nguyện, họ nói 'một tạ lý thuyết không bằng trăm gram thực hành' [cho nên cần chú trọng hành trì], điều này có hợp lý chăng? Rồi họ đưa ra nhiều dẫn chứng rằng các vị này vị kia, toàn các vị cao nhân hay Bồ Tát tái lai, tấm gương các Ngài thành tựu thật viên mãn thù thắng biết bao! Điều này chúng ta cần phải xem xét cho kỹ, rằng trong thời cuộc này, với căn tánh cùng hoàn cảnh nhân duyên như đa phần chúng ta đây, nếu không chịu ra sức học tập gầy dựng [bên cạnh việc hành trì dụng công] thì lấy gì để thành tựu đây? Mong thành tựu công phu như các Ngài kia ư? Dạ vâng, khó lắm, làm không nổi đâu! Xin khẳng định như vậy luôn, chứ chẳng phải là 'chưa đạt, chưa được, sẽ được' gì cả. Bậc Thánh nhân họ khác phàm phu chúng ta nhiều lắm, đừng có nhìn vào họ rồi nghĩ rằng mình cũng sẽ làm được y như họ! Các Ngài xuống đây thị hiện làm biểu pháp cho chúng ta thấy, để học tập theo. Nhưng nên nhớ, Phật dạy rằng "Y pháp bất y nhân", rằng căn cơ, hoàn cảnh chúng ta khác xa các Ngài, thế nên cần phải học tập một cách trạch pháp, có chọn lọc mới được [để phù hợp với căn cơ hoàn cảnh của chính mình]. Như thế mới gọi là 'khế lý, khế cơ'! Chứ còn, công phu thì không tới, Tín tâm thì chẳng chịu gầy dựng [làm sao đạt được], chưa kể còn vướng vào các kiến giải này kia nữa, như thế thì cả đời tu học làm sao cho Y giáo phụng hành lời Phật thuyết đây? Như thế thì chỉ còn trông mong vào pháp 'đại cứu tinh' Hộ Niệm lúc cuối vậy. Thế thì làm sao đảm bảo được điều gì! Tất cả đó là do chúng ta chẳng chịu nương theo lời Phật dạy chứ chẳng phải do khả năng chúng ta không có đủ. Thật sự là như thế! Bởi đây là Pháp môn tam căn phổ độ, phàm thánh gồm thâu cơ mà. Cho nên việc chọn lựa đường lối tu học [cho đúng căn cơ] là hết sức quan trọng, nó mang tính chất quyết định vậy!

Còn đối với việc gầy dựng Tín tâm theo cách thứ 2: "Niệm Phật, nương Nguyện lực của Phật, chắc chắn vãng sanh!" thì chúng ta đã học tập luận bàn khá nhiều rồi. Chư Tổ Sư các Ngài nói giống như đi thuyền lớn ắt đến được bến bờ bên kia. Không thể nghi ngờ điều này! Nhưng hiềm nổi, như bên trên đã nói, nhiều chúng sanh cũng muốn qua được bến bờ bên kia lắm nhưng lại thích 'tự bơi' cái đã, bình thời chẳng chịu [tin nhận] lên thuyền từ Bổn Nguyện cho sớm cho chắc ăn, lại cứ phải đợi đến phút cuối mới cố gắng mong bước lên được để được đến bờ bên kia. Đó là tùy chúng sanh chọn lựa vậy!

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 6. Phát Đại Thệ Nguyện

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Như Hòa chuyển ngữ

Lời Phật Lời Tổ

Yếu đạo để ra khỏi sinh tử, không gì hơn vãng sinh Tịnh Độ. Hạnh tu để vãng sinh Tịnh Độ tuy nhiều, không gì hơn Xưng Danh. Vì đó là hạnh của Di Đà Bổn Nguyện. Bởi vậy Hòa Thượng Thiện Đạo dạy rằng:
"Kinh VÔ LƯỢNG THỌ chép: "Khi tôi thành Phật, nếu mười phương chúng sinh xưng danh hiệu của tôi, dù chỉ mười lần mà không được vãng sinh thì tôi chẳng ở ngôi Chánh Giác". Đức Phật kia hiện tại thế thành Phật. Nên biết rằng Bổn Nguyện Trọng Thệ chẳng hư dối. Chúng sinh xưng niệm, tất nhiên được vãng sinh." Do đó ngoài xưng danh không cần quán tưởng gì khác.
Hiểu và tin như trên, lâm chung chắc chắn Phật lai nghinh. Nếu bình thường đã xưng danh tích lũy công đức thì dù cho lúc lâm chung không xưng được Phật danh vẫn quyết định vãng sinh.

Pháp Nhiên Thượng Nhân

Phương Pháp Hành Trì

Các Bài Pháp Nổi Bật

Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng

    Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
    Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!

  • Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi

  • Mô tả

    Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
    Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
    - Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
    - A Nan thưa hỏi.
    - Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.

  • Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha

  • Mô tả

    Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự

    Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.

  • Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
    (năm Dân Quốc 20 -1931)

    Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
    Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.

  • Hương Báu Xông Khắp

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!

  • Mô tả

    Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']

    Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.

  • Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!

  • Mô tả

    Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới

    Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực! 

  • Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Gia Ngôn Lục

    Khinh mạn vô căn cứ thì là Hư (虛). Xằng bậy đặt chuyện nói xấu, miệt thị là Vu (誣). Dùng quỷ kế gạt gẫm người khác là Trá (詐). Dùng những cách thức dối đời trái lẽ thì gọi là Ngụy (偽). Nói tách ra thì là bốn điều, nói gộp lại sẽ là ‘chẳng chân thành’. “Thành” là đạo của trời, suy nghĩ chân thành là đạo của người. Nay bỏ lòng thành, noi theo hư vu trá ngụy, chẳng phải là trái nghịch đạo trời, đánh mất đạo người hay sao? Cái tâm ấy quá nhọc nhằn, chuyện ấy quá nguy hiểm, chính là tướng trạng bạc phước nhất trong thiên hạ! Chẳng vào tam ác đạo thì sẽ đi về đâu?

    Đời Thanh, Tôn Đình Thuyên ở Ích Đô là người chất phác, chẳng phù phiếm. Vì thế, Thanh Thế Tổ (vua Thuận Trị) từng gọi ông ta là Tôn Lão Thật (ông Tôn thật thà). Mỗi khi chức vị Thượng Thư ở các bộ bị khuyết, vua liền bảo: “Vẫn là dùng Tôn Lão Thật [điền vào đó]”. Do ba lần gọi Tôn Lão Thật như thế, ông được phong làm Tể Tướng. Thật thà có bao giờ khiến cho người ta bị lầm lỡ đâu nhỉ?

    Cảm Ứng Thiên