Nguyện Thứ Mười Tám: "Mười Niệm Ắt Vãng Sanh"

NPSTD7

 

Nguyện Thứ Mười Tám: "Mười Niệm Ắt Vãng Sanh"

Chánh kinh:
Ngã tác Phật thời, thập phương chúng sanh, văn ngã danh hiệu, chí tâm tín nhạo, sở hữu thiện căn, tâm tâm hồi hướng, nguyện sanh ngã quốc, nãi chí thập niệm, nhược bất sanh giả, bất thủ Chánh Giác; duy trừ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp.
Lúc tôi thành Phật, mười phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi chí tâm tin ưa, tất cả thiện căn tâm tâm hồi hướng nguyện sanh cõi tôi, dẫu chỉ mười niệm, nếu chẳng được sanh thì chẳng lấy Chánh Giác. Chỉ trừ kẻ Ngũ Nghịch, phỉ báng chánh pháp.
(Nguyện mười tám: Mười niệm ắt vãng sanh)
Giải:
Ðoạn kinh này nói về nguyện thứ mười tám: “Mười niệm ắt vãng sanh”. Các vị cổ đức thuộc Tịnh Tông Nhật Bản phán định rằng: Trong các kinh, chỉ mình kinh Hoa Nghiêm là chân thật. Nhưng nếu đem Hoa Nghiêm so với kinh này thì kinh này mới là chân. Ðem các nguyện khác so sánh với nguyện này thì nguyện này chân thật nhất, nghĩa là: Nguyện này chân thật nhất trong các nguyện chân thật.
“Chí tâm” là tâm chí thành, tâm chí cực. Sách Kim Quang Minh Văn Cú nói: “Chí tâm là tột cùng nguồn tâm, tận cùng Thật Tế của tâm nên bảo là chí tâm”“Nguồn tâm” là nguồn gốc của bổn tâm. “Thật tế” là Chân Thật Tế nói trong kinh này. “Tín nhạo” (信樂tin ưa) là tin thuận pháp đã được nghe, do ưa thích nên sanh lòng tin hoan hỷ. “Chí” () còn có nghĩa là chân thành, thành thật. “Tâm” (là trân trọng, thành thật. “Tín” () là chân thật, thành thật, viên mãn, trung tín. “Nhạo” () là ham thích, mong muốn, yêu mến, sung sướng, vui vẻ, mừng rỡ. Như vậy, “tín tâm” là tấm lòng chân thật, thành thật, trọn vẹn, tấm lòng mong mỏi yêu thích, tấm lòng hoan hỷ, mừng rỡ. Dùng cái tâm như thế để tin yêu, ham thích, nên bảo là “chí tâm tín nhạo”.

(...)

 

TGCL11

Ảnh: Thế giới Cực Lạc 

 

Để chú giải Đại Nguyện này ngài Hoàng Niệm Tổ dùng rất nhiều Kinh giáo, trước tác, giảng luận của các bậc Tổ Sư, Đại Đức trước đây cùng rất nhiều luận cứ chú thích (9 trang đánh máy). Độc giả muốn tìm hiểu có thể tham khảo trong sách Chú Giải này. Ở đây, chúng ta sẽ học tập một cách ngắn gọn, xúc tích, ít văn tự hơn. Đó là y cứ theo giáo pháp của Đại sư Thiện Đạo trong các trước tác của Ngài [thông qua dẫn thuật của Tổ Pháp Nhiên].

Trong lời Nguyện này có hai chỗ chúng ta cần quan tâm nhất, đó là "chí tâm tín nhạo" [chí tâm tin ưa] và "nãi chí thập niệm"[cho đến mười niệm]. Phần "nãi chí thập niệm" thì trong sách Chú Giải này đã trình bày rất cụ thể, xác quyết rằng, đó chính là "hệ niệm""Trên là niệm trọn đời, dưới thâu vào mười niệm"[hạng bét của hàng Ngũ nghịch thập ác], theo ý chỉ của Tổ Thiện Đạo. Bởi thế nên các Ngài đều nói rằng ba bậc vãng sanh Thượng - Trung - Hạ đều gồm thâu trong Đại Nguyện này, chứ chẳng phải là chỉ dành cho bậc Hạ [niệm được mười niệm lúc lâm chung] như một số ý kiến đã nói. Vấn đề này đã được cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu. Bây giờ chúng ta tập trung học tập, nghiên cứu cụm từ "chí tâm tín nhạo" nghĩa là như thế nào và áp dụng trong hành trì tu tập ra sao, ngõ hầu có thể y giáo phụng hành, mang lại lợi ích thiết thực. Đó cũng tức là gầy dựng một Pháp dẫn đầu và cũng quan trọng vào hàng bậc nhất: TÍN, trong ba pháp của Tông chỉ Tịnh Độ Tông: Tín - Nguyện - Hạnh.

Tổ Pháp Nhiên đã dẫn lại lời Kinh [theo bản dịch đời Đường, cũng đồng nhất như trong bản Hội Tập], cùng lời dẫn của Tổ Thiện Đạo [trong sách Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật] như sau:

Kinh Vô Lượng Thọ quyển Thượng chép: "Khi tôi thành Phật, mười phương chúng sanh, hết lòng tin ưa, muốn sanh nước tôi, cho đến mười niệm, nếu chẳng được sanh, tôi không thành Phật" (Thiết ngã đắc Phật, thập phương chúng sanh, chí tâm tín nhạo, dục sinh ngã quốc, nãi chí thập niệm, nhược bất sinh giả, bất thủ Chánh Giác).

Quyển Quán Niệm Pháp Môn dẫn đoạn Kinh trên viết: "Nếu tôi thành Phật, mười phương chúng sanh, nguyện sanh nước tôi, xưng danh hiệu tôi, cho đến mười tiếng, nương nguyện lực tôi, nếu chẳng được sanh, tôi không thành Phật."

Quyển Vãng Sanh Lễ Tán dẫn đoạn Kinh trên viết: "Nếu tôi thành Phật, mười phương chúng sanh, xưng danh hiệu tôi, cho đến mười tiếng, nếu chẳng được sanh, tôi không thành Phật". Mà nay Phật kia, tại thế thành Phật, rõ ràng Bổn Thệ Trọng Nguyện chẳng hư dối, chúng sanh xưng niệm, tất được vãng sanh."

Hai quyển Quán Niệm Pháp Môn và Vãng Sanh Lễ Tán là của Tổ Thiện Đạo biên soạn. Mà lời của Tổ Thiện Đạo chúng ta xem là lời Kinh vậy.

Ý của Tổ Thiện Đạo là dẫn lại lời Kinh Phật thuyết theo hai cách [thật ra ý chỉ sâu xa chỉ là một] để giúp dễ hiểu, dễ phát khởi tín tâm mà hành trì để được lợi ích chân thật. Thật ra thì cả hai cách Ngài nêu đều nhằm liễu nghĩa chỗ "chí tâm tín nhạo" mà thôi. Bởi chỗ này hơi khó hiểu, chúng sanh dễ bị hiểu nhầm, đưa đến việc hành trì không đúng Pháp. Mà chỗ này cũng là chỗ tinh hoa, tâm tủy, quan trọng vào hàng bậc nhất của Pháp môn. Có thọ dụng để đạt được lợi ích chân thật của pháp môn hay không, chính là ở chỗ này. Bởi vậy các Ngài đặc biệt chú trọng, liễu giải kỹ chỗ này.

Đọc hai đoạn Kinh văn của Ngài bên trên, chúng ta thấy câu chữ ngắn gọn, rõ ràng, có vẻ không có gì khó hiểu. Vấn đề còn lại của chúng ta là phải "Tin" cho được. Rồi ra sức hành trì, chắc chắn sẽ được đại lợi ích. 

Trong hai đoạn này, đoạn phía trên rõ ràng dễ "Tin" hơn. Thế nên các Chư Tổ Sư Tịnh Độ đa phần đều dùng đoạn này. Chúng ta thấy các cụm từ như: "Nương Bổn Nguyện, nương sức Phật Thệ Nguyện, nương nguyện lực của Phật, nương cậy Phật từ lực..." xuất hiện nhan nhản khắp trong các trước tác Tịnh Độ, dĩ nhiên cũng không ít như "Tin Bổn Nguyện, tin vào Tha Lực Đại Đạo, tin nhận Di Đà cứu độ...".

Để Tín tâm phát khởi mạnh mẽ, chắc chắn, kiên cố, chẳng nghi hoặc, chẳng dao động, chúng ta cần nắm thật chắc phần Lý, giống như: 1+1=2 vậy, không sai chạy đâu được, như vậy thì mới lâu bền theo năm tháng được, rồi khi gặp những ngoại duyên bất đồng trên con đường tu tập, chúng ta nhờ cái lý vững chắc này mà vẫn trụ vững cái Tín tâm, chẳng hề bị dao động, suy suyễn. Giống như cái cây có cái rễ cọc cắm thật sâu vào lòng đất, dù gặp phong ba bão tố cùng lắm cũng chỉ gãy cành gãy ngọn, gốc rễ chẳng hề hấn chi. Đó cũng chính là điều mong mỏi của chúng ta sau khi học tập bài Pháp này.

Ở đây Đại Sư viết "nương nguyện lực tôi" thay thế cho "chí tâm tín nhạo". Chí tâm tin ưa, xưng danh hiệu tôi, nguyện sanh nước tôi, thì chắc chắn được sanh. Tương tự vậy, nguyện sanh nước tôi, xưng danh hiệu tôi, nương nguyện lực tôi, thì chắc chắn được sanh. Vậy thì, "nương nguyện lực tôi""chí tâm tin ưa" là một, cùng môt ý nghĩa, chẳng hai, chẳng khác. Nghĩa là như thế nào? Tức là "niệm Phật, [do] nương nguyện lực tôi, [nên] chắc chắc vãng sanh", tương tự, "niệm Phật, [mà] chí tâm tin ưa, [thì] chắc chắn vãng sanh". Vậy vì sao người niệm Phật, cầu nguyện vãng sanh, nhờ "nương sức Bổn Nguyện" lại chắc chắn được sanh, tuyệt đối không thể nghi ngờ điều này [nghĩa là "chí tâm tin ưa"]? Đây mới là mấu chốt vấn đề. Sự thâm áo, tâm tủy của Pháp môn nằm ngay ở chổ này đây, chiếc vé về Tây nó nằm ngay ở chổ này đây, chứ chẳng ở đâu khác!

Chư Tổ Sư thường đưa ra những lời khai thị như: "Bổn Nguyện là mạnh mẽ nhất", "Bổn Nguyện thật hùng cường", hay trong Kinh văn Phật thuyết rằng: "Giả sử lửa cháy khắp ba ngàn. Nhờ oai đức Phật tất siêu việt. Quyết định vãng sanh cõi Cực Lạc"... Tất cả chỉ là để giúp chúng sanh có thể thấu rõ mà phát khởi được Tín tâm đối với Nguyện Lực của Phật. Nguyện lực của Phật thật vĩ đại, thật vô song, bất khả tư nghì, có thể vượt qua mọi nghiệp lực của chúng sanh, để mà cứu vớt họ về Cực Lạc. Thế nên, chúng sanh 'nương tựa vào đó' thì chắc chắn được cứu vớt, chắc chắn được sanh về cõi kia, bất luận nghiệp lực của họ nặng nhẹ như thế nào, công phu sâu cạn ra sao đi nữa, Nguyện lực của Phật đều chiến thắng tất cả, để đưa cho được chúng sanh về đến cõi ấy mới thôi. Do Đức Phật Ngài đã phát Thệ Nguyện ra như thế [hay nói nôm na là Ngài đã 'hứa' như thế]. Đức Phật kia hiện đã tại thế thành Phật, nên lời Thệ Nguyện này tuyệt đối không hư dối, tuyệt đối không sai khác đi đâu được. Nên lời Thệ Nguyện tiếp dẫn này của Phật có sức mạnh 'vô song', bất khả tư nghì là như vậy. Mặt khác, niệm Phật là hạnh của Bổn Nguyện, nên chúng sanh niệm Phật tức là đang nương vào sức Bổn Nguyện [bất khả tư nghì], nên tất được sanh. Bởi vậy, Đại Sư viết "xưng danh hiệu tôi, nương nguyện lực tôi, tất được sanh". Ý chỉ Kinh văn là như vậy.

Tóm lại, đối với lời dẫn đầu tiên của Đại Sư, hành giả niệm Phật cầu vãng sanh chúng ta chỉ cần tin tưởng, khắc cốt ghi tâm cụm từ này: "Niệm Phật, nương Bổn Nguyện, chắc chắn vãng sanh" hay "Niệm Phật, nương Nguyện Lực của Phật, tất được vãng sanh". Bổn Nguyện chính là thuyền từ độ thoát chúng sanh khỏi biển sanh tử, chúng ta nương cậy vào sức thuyền từ này, chắc chắn sẽ đến bến bờ bên kia [cõi Cực Lạc]. Đây chính là hình tượng mà Chư Tổ Sư hay dùng, rất dễ hình dung để đề khởi, gìn giữ Tín tâm chân thật. "Niệm Phật, nương sức thuyền từ Bổn Nguyện, chắc chắn vãng sanh".

Ở lời dẫn Kinh văn thứ hai trong Vãng Sanh Lễ Tán, Đại sư dẫn giải câu chữ rõ ràng, ngắn gọn, xác quyết, không có gì khó hiểu. Vấn đề của chúng ta là phải Tin nhận lời Kinh này. Đoạn này ngắn gọn, dễ hiểu hơn, nhưng để phát khởi được niềm Tin một cách chân thật, kiên cố, không dao động thì cần thiện căn hơn. Với đoạn này, người tu Tịnh Độ chúng ta cần tin tưởng, xác quyết, khắc cốt ghi tâm cụm từ này: "Phật kia đã tại thế thành Phật, nên Bổn Nguyện chẳng hư dối, chúng sanh xưng niệm tất được vãng sanh" [hoàn toàn không thể nghi ngờ điều này, đồng nghĩa "chí tâm tin ưa"]. Hay nói ngắn gọn hơn đó là: "Bổn Nguyện chẳng hư dối, niệm Phật ắt vãng sanh". Hãy chủ tâm ở chỗ "Bổn Nguyện chẳng hư dối", bởi nếu Phật chẳng rước ta thì đâm ra Bổn Nguyện là hư dối mất, mà điều này là không thể [vì Phật hiện tại đã tại thế thành Phật]. Thế nên chắn chắn Phật đến rước ta, không nghi!

Chúng ta thấy rằng, những người niệm Phật mà lâm chung gặp ách nạn này kia, rồi chẳng được Phật rước, phần nhiều là do từ lúc bình thời chẳng chịu gầy dựng Tín Nguyện cho chân thật đầy đủ, dẫu tu hành có tinh tấn, đắc lực nhưng lại chẳng coi trọng việc này, vẫn là thường sanh tâm nghi hoặc, lo âu, sợ sệt này kia hay đặt niềm tin không đúng chỗ. Vì sao lại như vậy? Vì bình thời Tín Nguyện không đầy đủ nên không cảm được Bổn Nguyện gia trì che chở cho [nên dễ dính vào những kiếp nạn, sa ngã, mất phương hướng...], bình thời đã vậy rồi đến khi lâm chung thật khó cảm Bổn Nguyện gia trì tiếp dẫn. Thà là người mới, như tờ giấy trắng, còn dễ khai thị hộ niệm để đề khởi Tín tâm Nguyện tâm hơn. Có thể do họ không đủ duyên phước, không ai nói rõ cho họ biết điểm trọng yếu này nên không phát sinh Chánh tín này được, số lượng này lại chiếm phần đông, đại đa số [mà số lượng biết và tin nhận thì ít], lý do là hàng ngày họ thấy nghe những giảng thuyết về đường lối tự lực niệm Phật là nhiều, mặc dù cũng đều là Tịnh Độ cả. Chúng ta cần biết rằng, mặc dù cùng là tu Tịnh Độ, nhưng có hai đường lối hoàn toàn khác nhau: Một là tin tưởng, nương tựa vào Tha Lực [tức Nguyện Lực của Phật], gầy dựng Tín - Nguyện - Niệm Phật, theo Đại Nguyện thứ 18 này, đây cũng chính là Tông Chỉ Tông Yếu của Tịnh Độ Tông; Hai là gầy dựng công phu, tự lực niệm Phật [theo Đại Nguyện thứ 19 và 20]. Theo đường lối thứ hai, nếu bình thời công phu chưa thành tựu [nhất tâm bất loạn] thì giai đoạn cuối rất cần phải cậy vào Hộ Niệm, để gầy dựng trở lại Tín Nguyện đầy đủ, niệm Phật, được như thế mới có cơ hội vãng sanh. Có Tín Nguyện đầy đủ mới cảm được Bổn Nguyện, được Phật lực gia trì, giúp giữ vững chánh niệm, Phật tiếp dẫn vãng sanh. Còn không thì tự sức mình phải đối đầu với cận tử nghiệp bức bách khổ đau ùn ùn kéo đến, muôn vạn phần hiểm nguy, rất dễ rơi vào đường dữ chứ chưa dám nói đến cơ hội vãng sanh. Lời Kinh Phật thuyết rằng: "Từ bi gia hựu, khiến linh tâm bất loạn". Tâm tủy tâm yếu, tinh hoa nhất của Tịnh Độ Tông là ở ngay điểm này đây. Phật cứu chúng sanh thật sự nhất là ở ngay chỗ này, Ngài dùng Nguyện lực của Ngài để giúp chúng sanh vượt qua được sức nghiệp [dù sâu nặng đến đâu đi nữa] mà được đới nghiệp vãng sanh. Do đó chúng ta thấy rằng, việc gầy dựng Tín Nguyện là quan trọng như thế nào! Chúng ta cần sáng suốt lựa chọn con đường mình đi, bởi điều này có quan hệ lớn lao đến sanh tử đại sự của mỗi chúng ta vậy.

Trên đây là trình bày hai cách dẫn nghĩa Kinh văn của Đại Sư Thiện Đạo, chúng ta có thể học tập một trong hai cách trên [hoặc cả hai cách]. Trong các trước tác, khai thị, Chư Tổ Sư ưa dùng cách một hơn, tuy dài dòng hơn môt chút nhưng gần gủi, dể hình dung, dễ xác lập [Tín tâm chân thật, chẳng nghi] hơn, một khi đã xác lập chân thật rồi thì rất khó làm dao động được họ, bởi cái lý được xác định rất rõ ràng, dễ hiểu. Còn cách hai tuy ngắn gọn, trực chỉ, nhưng lại dễ bị cảnh duyên làm dao động, đễ giữ vững trọn đời không dao động thì cần thiện căn thật sâu dày. Với lại, cách một còn mang hàm nghĩa rằng 'trong lúc bình thời' nữa, nghĩa là luôn luôn tin tưởng, nương tựa vào Sức Bổn Nguyện trong suốt quãng đường tu tập của chúng ta ở cõi này [vốn không ít hung hiểm], để luôn cảm Bổn Nguyện, được sự bảo hộ, che chở, cường duyên cho đến ngày lâm chung [hay bất cứ lúc nào thọ mạng đến] rồi được Phật đến rước về.

Thật ra, hai cách là để bổ trợ cho nhau cả về lý và sự, cách một chính là ngầm liễu nghĩa [thêm một bước] cho cách hai, cách hai để y cứ Kinh văn cho cách một.

Một pháp Tín này chẳng phải chuyện giản đơn, nói đọc qua một lượt đã xác lập, hay một sớm một chiều đã đạt được. Chúng ta cần nghiêm túc học tập, đây chính là phần cốt lõi trong tu học cầu giải thoát của chúng ta. Có Tín sâu, chân thật, kiên cố bất động thì mới lập được Nguyện chân thật thiết tha, có thể buông bỏ, có thể xả ly để về với Phật bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Không có Tín tâm, hay hay Tín tâm yếu ớt, dễ dao động thì thôi, thật khó mà nhìn thấu buông xuống được, có chăng chỉ là buông ngoài cửa miệng mà thôi. Dù có cố gắng nhìn thấu suốt để buông xuống đi chăng nữa nhưng cái tâm phàm của chúng ta do tập khí sâu nặng nó chẳng muốn buông, vẫn cứ là thích dính mắc chấp trước vào, cố buông đầu này lại dính mắc đầu kia, rất khó để buông xả rốt ráo được . Còn Tín tâm kiên cố, vững chắc, chẳng nghi thì dù thế nào đi nữa cũng sẵn sàng buông xả tất cả, một lòng một dạ theo Phật về Tây bất cứ lúc nào, ở đâu. Thế nên trong công tác hộ niệm cho người lúc lâm chung, rất cần đề khởi tín tâm chân thật cho họ, giúp cho họ tin tưởng "niệm Phật thì Phật rước", nên cứ một lòng niệm Phật đợi Phật đến rước. Tín tâm vững, chắc bao nhiêu thì khả năng thành tựu vãng sanh của họ là bấy nhiêu. Tin chắc không nghi [Phật sẽ đến rước], niệm Phật, chắc chắc Phật rước, không sai chạy đâu được. Bởi vì đó chính là chúng ta đang hộ niệm đúng như Lý như Pháp rồi vậy. Lúc này thì rõ ràng nên dùng cách thứ hai rồi, ngắn gọn, trực diện, tránh dài dòng.

Ba Pháp Tín - Nguyện - Niệm Phật chính là Tông chỉ tông yếu của Tịnh Độ Tông, chúng được xác lập từ Đại Nguyện thứ 18 này. Cho nên Chư Tổ Sư nói rằng, Bổn Nguyện [Phẩm thứ 6] chính là trung tâm của Bản Kinh này, mà trong đó, Đại Nguyện thứ 18 chính là hồng tâm vậy. 

Chúng ta liệu có thể nói rằng, chi mà rắc rối vậy, cứ một câu A Di Đà Phật mà niệm mãi là được rồi, đâu cần tìm hiểu lý luận chi cho mệt rắc rối? Dạ vâng, một câu Phật hiệu đầy đủ chỉ trong các trường hợp sau: Một số bậc Bồ Tát tái lai; bậc ngu phu ngu phụ [Dương đầu ngốc, Lão Đức HT,...]; người không biết một chữ [Ông thợ vá nồi, ...]; các cụ già buông bỏ muôn duyên "lão thật niệm Phật"; cư dân vùng nông thôn sơn cước thời xưa kia ít tiếp xúc ngoại duyên; các loài vật niệm Phật vãng sanh... Những trường hợp này chẳng biết Kinh giáo gì cả, một câu Phật hiệu chân thật niệm, thành tựu. Lý do là vì tâm họ thuần nhất, chẳng dụng tâm tạp loạn, trong tâm chỉ thuần nhất một câu Phật hiệu, ngoài ra chẳng có Pháp gì khác. Vì thế nên sau một thời gian dụng công, tự nhiên trong câu Phật hiệu phát huy đầy đủ Tín tâm, Nguyện tâm, đầy đủ không thiếu thứ gì cả. Thế nên mới gọi là Vạn đức hồng danh. Tuy nhiên, với căn tánh và hoàn cảnh chúng sanh thời nay, chúng ta hãy chân thật kiểm lại xem liệu có phải như vậy không? Cho nên nói, Pháp Phật truyền trao, chúng ta cứ Y giáo phụng hành, nhất định thành tựu. Đừng nên thêm bớt thay đổi gì cả, bởi trong ấy đã đầy đủ trọn vẹn hết cả rồi, chẳng thừa chẳng thiếu.

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 6. Phát Đại Thệ Nguyện

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Lời Phật Lời Tổ

Yếu đạo để ra khỏi sinh tử, không gì hơn vãng sinh Tịnh Độ. Hạnh tu để vãng sinh Tịnh Độ tuy nhiều, không gì hơn Xưng Danh. Vì đó là hạnh của Di Đà Bổn Nguyện. Bởi vậy Hòa Thượng Thiện Đạo dạy rằng:
"Kinh VÔ LƯỢNG THỌ chép: "Khi tôi thành Phật, nếu mười phương chúng sinh xưng danh hiệu của tôi, dù chỉ mười lần mà không được vãng sinh thì tôi chẳng ở ngôi Chánh Giác". Đức Phật kia hiện tại thế thành Phật. Nên biết rằng Bổn Nguyện Trọng Thệ chẳng hư dối. Chúng sinh xưng niệm, tất nhiên được vãng sinh." Do đó ngoài xưng danh không cần quán tưởng gì khác.
Hiểu và tin như trên, lâm chung chắc chắn Phật lai nghinh. Nếu bình thường đã xưng danh tích lũy công đức thì dù cho lúc lâm chung không xưng được Phật Danh vẫn quyết định vãng sinh.

__________________________

"Kinh VÔ LƯỢNG THỌ chép: "Khi tôi thành Phật, nếu mười phương chúng sinh xưng danh hiệu của tôi, dù chỉ mười lần mà không được vãng sinh thì tôi chẳng ở ngôi Chánh Giác": Tức chỗ "nãi chí thập niệm" trong Bổn Nguyện.

"Đức Phật kia hiện tại thế thành Phật. Nên biết rằng Bổn Nguyện Trọng Thệ chẳng hư dối. Chúng sinh xưng niệm, tất nhiên được vãng sinh": Lời diễn giải khai thị đơn giản cô đọng thêm của các Ngài.

"Do đó ngoài xưng danh không cần quán tưởng gì khác": Tức [tin tưởng chẳng nghi mà] hành trì, không cần phát sanh các kiến giải này kia khác.

Pháp Nhiên Thượng Nhân

Phương Pháp Hành Trì

Các Bài Pháp Nổi Bật

"Tự Mình Chẳng Về, Về Liền Được; Gió Trăng Quê Cũ Há Ai Giành?"

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh
    (năm Dân Quốc 22 - 1933)

    Đã ăn chay trường niệm Phật, [vẫn cần] hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể...
    Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp?

  • Quanh Năm Niệm Phật

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao

    Nhận được thư ông từ ba hôm trước, biết lệnh lang là Hà Sanh đã niệm Phật vãng sanh. Tuy về Thế Đế, tựa hồ [đó là] chuyện bất hạnh, nhưng vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao. 

  • Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

  • Mô tả

    Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

    1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.

  • Chứng Bất Thoái Ngay Trong Hiện Đời

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Pháp Môn Vừa Cực Khó Vừa Cực Dễ

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh

    Ông đã biết lợi ích của việc niệm Phật thì từ rày hãy nên gắng công hơn để tự được nhất tâm. Nhưng một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh, chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực để vãng sanh.

  • Đắc Đà-Ra-Ni

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Chiếu Tột Mười Phương

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Hễ Có Tín Nguyện Thì Không Một Ai Chẳng Được Thấm Nhuần, Viên Đốn Thẳng Chóng

  • Mô tả

    Luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu

    Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo đó thôi! Nhưng vì chúng sanh căn cơ bất nhất, khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp diệu minh, nếu không phải là người túc căn thành thục lại muốn ngay trong một đời này hoàn thành thì thật là hiếm có mấy ai.

  • Gia Ngôn Lục

    [Tánh tình] thanh cao thì đáng quý nhất là có thể bao dung, người nhân từ thì cốt sao phải quyết đoán. Đừng vì [kẻ khác] thí xả ân huệ nhỏ nhoi [đối với mình] mà [nể nang ân nghĩa đến nỗi] tổn thương đại thể; đừng mượn danh nghĩa công chánh để xử sự theo tình cảm thiên vị riêng tư. Ở trong hoàn cảnh bận bịu, phải nên biết cách giữ mình nhàn tản, lúc gấp rút càng nên giữ mình thong dong, lúc vô sự đừng quên đề phòng, tự kiểm điểm. Khi có việc thì phải kiên nhẫn, chịu đựng, đừng vì thành kiến mà chất chứa nghi ngại [đối với kẻ khác]. Đừng cố chấp kiến giải của chính mình để rồi cự tuyệt những lời can gián. Có chừng mực phân minh, sẽ có thể giảm bớt việc. Chẳng quan tâm lời khen, tiếng chê, tâm sẽ có thể thanh tịnh. Do chánh trực, có thể cảm thông thần minh. Do trung tín, sẽ có thể ở nơi biên địa, kém văn minh, mà vẫn chẳng bị trở ngại. Nhân phẩm phải đến mức như thế thì mới gọi là “chánh” được!
    Cái tâm đã chánh rồi thì sau đấy mới có thể khiến cho bản thân mình cùng muôn vật được đoan chánh. Cái tâm đã chánh, muôn vật sẽ định. Bởi lẽ, sự cảm nhiễm do thanh sắc bên ngoài chỉ là những chứng bệnh nơi cành nhánh. Tình thức hư vọng phát khởi từ bên trong, đấy là căn bệnh nơi cội gốc. Người học đạo trước hết hãy nên đối trị nội tâm để ngăn ngừa [sự dụ dỗ, mê hoặc từ] bên ngoài. Chớ nên tham đắm ngoại cảnh khiến cho nội tâm bị tổn hại. [Như vậy thì] cái tâm đã được kiến lập chánh đáng, muôn vật chẳng hề có thứ gì không bị cảm hóa theo. Bởi lẽ, căn bản của nhất tâm đã mạnh mẽ, chắc thật, tự nhiên muôn vật [vốn là] những thứ cành lá sẽ tươi tốt. Do vậy, muốn hướng dẫn muôn loài thì cái tâm phải thanh tịnh. Để khiến cho người khác chánh đáng thì chính mình phải chánh đáng trước đã.

    Cảm Ứng Thiên