Như Vậy Nhất Tâm Cầu Cõi Tịnh, Quyết Định Vãng Sanh Cõi An Lạc. Giả Sử Đại Hỏa Trọn Tam Thiên, Nương Oai Đức Phật Vượt Qua Được

NPSTD7

 

Như Vậy Nhất Tâm Cầu Cõi Tịnh, Quyết Định Vãng Sanh Cõi An Lạc. Giả Sử Đại Hỏa Trọn Tam Thiên, Nương Oai Đức Phật Vượt Qua Được

Chánh kinh:

Nhĩ thời, Thế Tôn nhi thuyết tụng viết:
Nhược bất vãng tích tu phước huệ
Ư thử chánh pháp bất năng văn
Dĩ tằng cúng dường chư Như Lai
Tắc năng hoan hỷ tín thử sự
Ác kiêu giải đãi cập tà kiến
Nan tín Như Lai vi diệu pháp
Thí như manh nhân hằng xử ám
Bất năng khai đạo ư tha lộ

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bèn nói kệ tụng:
- Xưa kia nếu chẳng tu phước huệ
Thì chẳng được nghe chánh pháp này
Ðã từng cúng dường các Như Lai
Mới hoan hỷ tin nổi sự này
Ác, kiêu, biếng nhác và tà kiến
Khó tin Như Lai vi diệu pháp
Như kẻ đui ở mãi trong tối
Chẳng thể chỉ đường cho kẻ khác
Giải:
Bốn câu đầu thể hiện ý nghĩa tên phẩm này “phước huệ thỉ văn” (phước huệ mới được nghe). Ðây cũng chính là như trong kinh đã dạy: “Đương hữu chúng sanh, thực chư thiện bổn, dĩ tằng cúng dường vô lượng chư Phật, do bỉ Như Lai gia oai lực cố, năng đắc như thị quảng đại pháp môn, nhiếp thủ thọ trì” (Nếu có chúng sanh trồng các cội lành, đã từng cúng dường Vô Lượng Thọ Phật, do oai lực của đức Như Lai ấy gia bị nên mới được pháp môn rộng lớn như thế này nhiếp thủ, thọ trì).
“Thực chư thiện bổn” (Trồng các cội lành) trong đoạn kinh trên đây chính là “vãng tích tu phước huệ” (xưa kia tu phước huệ). Nếu trước đã chẳng tu sẽ “ư thử chánh pháp bất năng văn” (chẳng được nghe chánh pháp này).
“Dĩ tằng cúng dường chư Như Lai” (Đã từng cúng dường các Như Lai) chính là như trong đoạn kinh trên nói: “Dĩ tằng cúng dường vô lượng chư Phật” (Đã từng cúng dường vô lượng chư Phật). Người như vậy rộng tu cội lành, lại được oai lực của đức Như Lai gia bị nên “tắc năng hoan hỷ tín thử sự” (thì mới có thể hoan hỷ tin tưởng chuyện này).
Kinh Kim Cang nói:
“Như Lai diệt hậu, hậu ngũ bách tuế, hữu trì giới tu phước giả, ư thử chương cú năng sanh tín tâm, dĩ thử vi thực, đương tri thị nhân, bất ư nhất Phật, nhị Phật, tam tứ ngũ Phật nhi chủng thiện căn, dĩ ư vô lượng thiên vạn Phật sở chủng chư thiện căn” (Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau đó có kẻ trì giới, tu phước, đối với chương cú này mà sanh nổi lòng tin, coi đó là thật thì nên biết là người ấy chẳng phải đã gieo trồng thiện căn ở nơi một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức Phật, mà là đã từng ở nơi vô lượng trăm vạn đức Phật gieo các căn lành).
Vì thế, người nghe được pháp môn Tịnh Ðộ tối cực viên đốn, phương tiện rốt ráo này, nghe xong hoan hỷ tin nhận thì là đã từng tu phước, tu huệ, trồng các căn lành nơi vô lượng Phật.
Trái lại, hết thảy những kẻ ác trược, kiêu mạn, biếng nhác và tà kiến sẽ chẳng thể tin nổi pháp này; khác nào kẻ đui mù thường sống trong bóng tối, tự mình chẳng biết đường thì làm sao dẫn dắt người khác đi theo đường chánh cho được!


Chánh kinh:
Duy tằng ư Phật thực chúng thiện
Cứu thế chi hạnh phương năng tu
Văn dĩ thọ trì cập thư tả
Độc tụng, tán diễn, tinh cúng dường
Như thị nhất tâm cầu tịnh phương
Quyết định vãng sanh Cực Lạc quốc
Giả sử đại hỏa mãn tam thiên
Thừa Phật oai đức tất năng siêu
Chỉ từng nơi Phật gieo các thiện
Thì mới tu nổi hạnh cứu đời
Nghe xong thọ trì và biên chép
Ðọc, tụng, khen, giảng và cúng dường
Nhất tâm như vậy cầu cõi tịnh
Quyết định vãng sanh cõi An Lạc
Giả sử đại hỏa trọn tam thiên
Nương oai đức Phật vượt qua được
Giải:
Chỉ có hạng người đã từng ở nơi vô lượng đức Phật trồng nhiều cội lành lớn lao mới có thể tu tập hạnh cứu độ khắp hết thảy thế gian này. “Cứu thế chi hạnh” (hạnh cứu đời) chính là như kinh này đã nói:
Hết thảy hàm linh trong đời tương lai đều nhờ vào pháp này mà được độ thoát. Ai muốn tự cứu và cứu khắp hết thế gian thì đều phải tu hạnh cứu độ thế gian đó. Cái hạnh ấy chính là như đoạn kệ tiếp đó đã nói: “Văn dĩ thọ trì cập thư tả” (Nghe rồi thọ trì và biên chép)… cho đến “như thị nhất tâm cầu tịnh phương” (như thế nhất tâm cầu cõi tịnh).
Ðoạn trên là nói về việc nghe và tin kinh này, đoạn kệ đây giảng rộng ý nghĩa: Từ nghe và tin hãy nên phát khởi hạnh nguyện. “Thọ” (受) là tin nhận, “trì” (持) là gìn giữ. Phụng hành đúng theo lời dạy, phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm A Di Ðà Phật. Ðồng thời còn biên chép, đọc tụng, khen ngợi, diễn nói, cúng dường kinh Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác này. Đối với các thứ công đức thù thắng nhiệm mầu như vậy đều dùng tâm chí thành, tâm bất nhị để hồi hướng Tịnh Ðộ, cầu sanh Cực Lạc nên bảo là “như thị nhất tâm cầu tịnh phương” (như vậy nhất tâm cầu cõi tịnh). Phật liền thọ ký rằng: “Quyết định vãng sanh Cực Lạc quốc” (Quyết định vãng sanh cõi Cực Lạc).
Hạng người như thế lúc lâm chung “giả sử tam thiên đại thiên thế giới mãn trung đại hỏa, diệc năng siêu quá, sanh bỉ quốc độ” (giả sử cả tam thiên đại thiên thế giới đều ngập tràn đại hỏa vẫn có thể vượt qua sanh về cõi ấy) cho nên mới nói: “Giả sử đại hỏa mãn tam thiên, thừa Phật oai đức tất năng siêu” (Giả sử đại hỏa trọn tam thiên, nương oai đức Phật ắt sẽ vượt qua được).

 

dd2-tile

Ảnh: Một số thiên tai, nhân họa trên quả đất này

Câu: Vì thế, người nghe được pháp môn Tịnh Ðộ tối cực viên đốn, phương tiện rốt ráo này, nghe xong hoan hỷ tin nhận thì là đã từng tu phước, tu huệ, trồng các căn lành nơi vô lượng Phật.

Đúng là quy luật Nhân Quả, có gieo thì mới có gặt, có tu thì mới có được, nhận [nghe, tin]. Được cái quả càng viên mãn thì cái nhân gieo cũng phải thật sâu dày. Bởi vậy, chúng ta đây nếu có một chút tin nhận và chịu hành trì Pháp môn này thì cũng hiểu là đã từng trồng vô lượng căn lành, cúng dường vô lượng Phật [mới được như ngày hôm nay]. Thế nên hãy trân quý cái nhân duyên này.

Thật ra, tu hành [Pháp môn này] có khó không Quý vị? Thật sự, cái khó nó nằm ở niềm tin. Có niềm tin sẽ có tất cả [chịu nghe, chịu hành, chịu xả ly, chân thật cầu sanh về]. Mà muốn có niềm tin thì không phải một sớm một chiều mà có ngay được, nó thuộc về thiện căn của mỗi người, cần phải trải qua một quá trình huân tu lâu dài, từ nhiều đời nhiều kiếp trước và đời này.

Câu: Trái lại, hết thảy những kẻ ác trược, kiêu mạn, biếng nhác và tà kiến sẽ chẳng thể tin nổi pháp này; khác nào kẻ đui mù thường sống trong bóng tối, tự mình chẳng biết đường thì làm sao dẫn dắt người khác đi theo đường chánh cho được!

Pháp môn này là Pháp môn cậy vào Tha Lực, vì thế Đức Phật nói rằng: "những kẻ ác trược, kiêu mạn, biếng nhác và tà kiến sẽ chẳng thể tin nổi pháp này". Những kẻ làm ác từ trước, nay biết hồi đầu, sửa đổi hướng thượng thì được, còn như tiếp tục mặc tình tạo tác, hay những kẻ kiêu mạn, biếng nhác , chẳng chịu tu sửa, chẳng chịu phát tâm cải đổi, vẫn cứ y như tập khí cũ thì thôi... chịu thua, không thể phát khởi lòng tin chân thật được, [vì vậy] cũng không cách gì 'nhập môn' này được. Đặc biệt, tu tập Pháp môn này mà vẫn còn cái tâm "kiêu mạn", tự cho rằng mình 'ngon, giỏi', thích cậy vào tự lực [hay những thế lực gì đó như lực đại chúng, đồng tu, thiện tri thức...], thì càng khó thành tựu. Vì sao vậy? Bởi như vậy là tu không đúng pháp. Phật dạy chúng ta hãy tin tưởng, nương cậy vào Nguyện lực của Phật, Phật sẽ cứu, chúng ta lại [tự kiêu] đi nương cậy vào sức mình hay sức người thì thôi rồi... Niềm tin đặt không đúng nơi đúng chỗ rồi. Phật luôn muốn cứu vớt còn ta thì lại... ngoảnh mặt làm ngơ, thế thì làm sao cảm ứng đạo giao và được Phật đến rước đây. Các trường hợp gặp ách nạn lúc lâm chung toàn do điều này cả, thiếu sự che chở, bảo hộ, gia trì của Tha Lực Đại Đạo. Rất nguy hiểm! Thế nên, những nhân duyên đó [lực đại chúng, đồng tu hộ niệm, thiện tri thức khai thị...] hãy để Phật tùy theo duyên phước mỗi người mà sắp đặt cho [rất viên mãn!], chúng ta không nên cưỡng cầu, mà chỉ một lòng một dạ tin tưởng, nương cậy vào Phật lực từ bi cứu độ mà thôi, ra sức hành trì, dụng công niệm Phật, chân thật cầu sanh về cõi Tịnh.

Đoạn cuối Kinh văn, Đức Phật Ngài nêu một thí dụ [giả sử] để cho chúng ta thấy được [phần nào] sức mạnh của Bổn Nguyện, để giúp chúng sanh phát khởi được lòng tin chân thật vào Tha Lực. Hành giả chúng ta đây mặc dù rất nhiều người tu hành rất tinh tấn, dũng mãnh, nhiều năm, nhưng nói tới 'lâm chung', 'thọ mạng đến' lại sợ! Sợ điều gì? Sợ lúc đó cận tử nghiệp bủa vây, không giữ được chánh niệm, Phật không đến rước... Nói thật với Quý vị, nếu ai có lòng tin sâu, chắc, chẳng nghi về Tha Lực cứu độ, dẫu lúc đó ...trời sập, động đất, núi lửa, sóng thần, ôn dịch... xảy đến, Phật vẫn [kịp] đến che chở, gia hựu, và rước chúng ta về Cực Lạc. Chẳng tin sao? Đoạn Kinh văn trên làm chứng cho tất cả, dẫu có đại hỏa Tam thiên [đại thiên thế giới], Phật còn đến ứng cứu, huống hồ chỉ những tai ách trên quả địa cầu này, hay những nghiệp khổ bức bách gì đó của chúng sanh! Thế nên, hãy tin đi Quý vị! Tin tưởng [nương tựa vào đó], thì Phật sẽ đến rước về Cực Lạc, còn không [chịu] tin thì còn ở lại Ta Bà chịu khổ dài dài đấy.

Cuối cùng, có một chút vấn đề về 'văn tự, dịch thuật' ở đây [nhưng rất quan trọng].

Nguyên văn lời Kinh, Hán dịch:

"Văn dĩ thọ trì cập thư tả

Độc tụng, tán diễn, tinh cúng dường
Như thị nhất tâm cầu tịnh phương"

Người dịch bản Chú Giải này dịch:

"Nghe xong thọ trì và biên chép

Ðọc, tụng, khen, giảng và cúng dường
Nhất tâm như vậy cầu cõi tịnh"

Rõ ràng, nếu dịch sát [và đúng] nghĩa phải là:

"Như vậy nhất tâm cầu cõi tịnh"

Nếu liễu nghĩa đầy đủ ra sẽ là:

"Nghe xong thọ trì và biên chép

Ðọc, tụng, khen, giảng và cúng dường
[Hành trì] như vậy nhất tâm cầu cõi tịnh"

Đức Phật ngài muốn nhấn mạnh ở đây là phải "nhất tâm cầu cõi Tịnh", tức Tín tâm Nguyện tâm kiên cố chắc chắn, đầy đủ chân thật, không bị dao động, lui sụt hay hồ nghi; còn hành trì thì tùy căn cơ chúng sanh mà: thọ trì, biên chép, đọc, tụng, khen, giảng, cúng dường... rồi một lòng hồi hướng cầu sanh về cõi Tịnh. [Nhưng đến đoạn cuối Đức Phật ngài đặc biệt nhấn mạnh đến hạnh "thọ trì" [tin nhận, chuyên niệm Phật] "Ưng thường niệm Phật nhi sanh hỷ" (Nên thường niệm Phật, sanh hoan hỷ)].

 

Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ

Phẩm 47. Phước Huệ Thỉ Văn

Ngài Hoàng Niệm Tổ

Lời Phật Lời Tổ

Người Niệm Phật mà có lòng cầu vãng sinh và không nghi Di Đà Bổn Nguyện thì khi lâm chung không bị điên đảo. Sở dĩ được như vậy là nhờ Phật lai nghinh.
Phật lai nghinh là để người tu Niệm Phật lúc lâm chung được chánh niệm, chứ không phải lúc lâm chung cần phải chánh niệm thì Phật mới lai nghinh.
Người không biết nghĩa nầy đều cho rằng lúc lâm chung cần phải chánh niệm Niệm Phật, Phật mới lai nghinh. Kiến giải như vậy là không tin vào Phật Nguyện và cũng không hiểu kinh văn nữa.

___________________________

Thật sự rằng nếu hành giả nào có lòng tin chân thật chẳng nghi cái Pháp này thì không ai chẳng được Phật rước cả, thật sự vậy. Tin cái Pháp này tức là tin cái gì? Đó tức là tin Lời Thệ Nguyện của Phật, tức Di Đà Bổn Nguyện. Cho nên các Ngài mới nói là hành giả mà chẳng nghi Di Đà Bổn Nguyện thì lâm chung chắc chắn được Phật lai nghinh là vậy. Dĩ nhiên ở đây là phải tin cho đúng nghĩa lý, không được tin sai, dẫu cho khó tin cũng phải cố gắng gầy dựng dần. Thật ra ai mà đã tin chắc được Bổn Nguyện theo cái cách 'không chuẩn xác' kia rồi thì bây giờ muốn thay đổi lại để tin cho đúng thì hoàn toàn có thể làm được [phải biết cách một chút], nhưng cái điều quan trọng nhất đó là liệu họ có dám từ bỏ cái tri kiến kia hay không [tức cho rằng mười niệm này là dành cho lúc lâm chung], bởi nếu cứ chấp chặt vào cái kiến giải này quyết không thay đổi thì thôi, đành chịu thua, giờ có nói gì với họ đi nữa cũng vô ích chẳng có tác dụng gì cả [tức bị phạm vô cái "tà kiến" mà Phật đã nói trong Kinh].

"Phật lai nghinh là để người tu Niệm Phật lúc lâm chung được chánh niệm, chứ không phải lúc lâm chung cần phải chánh niệm thì Phật mới lai nghinh": Vậy vì sao Phật lại lai nghinh? Bởi đơn giản là vì người đó có lòng tin chẳng nghi đối với lời Thệ Nguyện của Phật [tức Bổn Nguyện], cho nên 'bắt buộc' Phật phải lai nghinh đến tiếp dẫn người đó về Cực Lạc khi mãn phần, không thể khác được [bởi chỉ cần 'khác' một cái là Phật không thể thành Phật được, mà điều này thì không bao giờ xảy ra]. Cho nên hành giả cần phải gầy dựng cho được lòng tin chân thật đối với Di Đà Bổn Nguyện là vậy, và cần phải tin cho đúng nữa. Chứ còn cũng tin nhưng tin trật [nghĩa lý] thì cũng như không, bởi như vậy thật ra là vẫn chưa tin được gì cả.

Vậy thì dạng chẳng biết Kinh giáo hay Bổn Nguyện gì cả thì sao [dạng tu quãng ngắn, cụ già...]? Họ chân thật niệm Phật và vãng sanh thật thù thắng đó? Trả lời: Dạng này mặc dù chẳng biết Bổn Nguyện là gì cả nhưng thật ra một khi họ tin chắc chẳng nghi điều này 'Niệm Phật chắc chắn được Phật rước, bất luận điều gì xảy ra', tức cũng dạng tin chắc chẳng nghi Di Đà Bổn Nguyện rồi vậy [theo đúng nghĩa lý], cho nên họ được thành tựu thù thắng. Chỉ có điều gầy dựng kiểu này trong quãng ngắn thì được, còn dạng 'đường trường' thì sau một thời gian thì lại mai một, với lại rất khó không phải ai cũng đạt 'tới hạn' được [chí tâm tin ưa, bất sanh nghi hoặc], tức hành giả vẫn còn trạng thái lúc tin lúc ngờ [do thiếu cái Lý rốt ráo để nương tựa]. Cho nên các Ngài mới khuyên dạy nên nương tựa Kinh giáo mà gầy dựng là vậy, dù cho với dạng hành giả nào đi nữa, nếu còn tiếp nhận được thì nên học tập theo, bởi cơ hội thành tựu sẽ vượt trỗi hẳn so với dạng không nương tựa.

Pháp Nhiên Thượng Nhân

Phương Pháp Hành Trì

Các Bài Pháp Nổi Bật

"Tự Mình Chẳng Về, Về Liền Được; Gió Trăng Quê Cũ Há Ai Giành?"

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Vu Quy Tịnh
    (năm Dân Quốc 22 - 1933)

    Đã ăn chay trường niệm Phật, [vẫn cần] hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể...
    Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp?

  • Quanh Năm Niệm Phật

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Trầm Thọ Nhân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao

    Nhận được thư ông từ ba hôm trước, biết lệnh lang là Hà Sanh đã niệm Phật vãng sanh. Tuy về Thế Đế, tựa hồ [đó là] chuyện bất hạnh, nhưng vãng sanh là đã siêu phàm nhập thánh, quả thật là may mắn lớn lao. 

  • Cậy Vào Phật Từ Lực Đới Nghiệp Vãng Sanh, Nếu...

  • Mô tả

    Phát khởi mạnh mẽ chí hướng lớn lao

    1) Hết thảy chúng sanh đều sẵn có Tánh Đức, nhưng rất ít có Tu Đức. Nay đã phát tâm học Phật là do từ Tánh Đức khởi lên Tu Đức. Tuy có tâm ấy, nhưng nếu chẳng kiệt thành tận kính tu trì thì Tu Đức chẳng thể tăng trưởng, Tánh Đức vẫn bị phiền não ác nghiệp gây chướng ngại như cũ, chẳng thể hiển hiện được! Như mặt trời trong mây, trọn chẳng thấy được tướng sáng. Vì thế, phải phấn chấn tinh thần, giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, làm các điều lành trong thế gian.

  • Chứng Bất Thoái Ngay Trong Hiện Đời

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Pháp Môn Vừa Cực Khó Vừa Cực Dễ

  • Mô tả

    Thư trả lời cư sĩ Tập Hoài Tân
    (năm Dân Quốc 20 - 1931)

    Dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh

    Ông đã biết lợi ích của việc niệm Phật thì từ rày hãy nên gắng công hơn để tự được nhất tâm. Nhưng một pháp niệm Phật chú trọng vào ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh, chỉ biết niệm nhưng không sanh lòng tin và phát nguyện, dù có đắc nhất tâm cũng chưa chắc được vãng sanh. Nếu đầy đủ lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dẫu chưa đạt nhất tâm bất loạn, vẫn có thể cậy vào Phật từ lực để vãng sanh.

  • Đắc Đà-Ra-Ni

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, tha phương thế giới chư Bồ Tát chúng văn ngã danh giả, chứng ly sanh pháp, hoạch đà-ra-ni, thanh tịnh hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ. Tu Bồ Tát hạnh, cụ túc đức bổn. Ứng thời bất hoạch nhất nhị tam nhẫn. Ư chư Phật pháp, bất năng hiện chứng Bất Thoái Chuyển giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, các hàng Bồ Tát trong các thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi liền chứng ly sanh pháp, đắc đà-ra-ni, thanh tịnh, hoan hỷ, đắc bình đẳng trụ, tu Bồ Tát hạnh, đầy đủ cội đức; nếu ngay lập tức chẳng đạt được một, hai, hay ba thứ Nhẫn, với các Phật pháp nếu chẳng thể chứng ngay được Bất Thoái Chuyển thì chẳng lấy Chánh Giác.

  • Chiếu Tột Mười Phương

  • Mô tả

    Chánh kinh:
    Ngã tác Phật thời, sở cư Phật sát, quảng bác nghiêm tịnh, quang oánh như kính, triệt chiếu thập phương vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới. Chúng sanh đổ giả, sanh hy hữu tâm. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
    Lúc tôi thành Phật, cõi Phật tôi ở rộng rãi nghiêm tịnh, sáng ngời như gương, chiếu thấu mười phương vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn thế giới của chư Phật. Chúng sanh trông thấy sanh tâm hy hữu. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.

  • Hễ Có Tín Nguyện Thì Không Một Ai Chẳng Được Thấm Nhuần, Viên Đốn Thẳng Chóng

  • Mô tả

    Luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu

    Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo pháp cả một đời của đức Như Lai tuy Đại - Tiểu bất đồng, Quyền - Thật đều khác, nhưng không pháp nào chẳng nhằm làm cho chúng sanh đoạn Hoặc chứng Chân, liễu sanh thoát tử, phô bày trọn vẹn cái họ sẵn có, thành ngay vào Phật đạo đó thôi! Nhưng vì chúng sanh căn cơ bất nhất, khiến cho đức Như Lai phải tùy thuận cơ nghi, lập ra đủ mọi cách thuyết pháp Thiên - Viên - Đốn - Tiệm. Nhưng chúng sanh luân chuyển sanh tử bao kiếp dài lâu, Hoặc nghiệp sâu dầy ngăn lấp diệu minh, nếu không phải là người túc căn thành thục lại muốn ngay trong một đời này hoàn thành thì thật là hiếm có mấy ai.

  • Gia Ngôn Lục

    Chàng học trò nọ ở Quý Khê, thi nhiều lần chẳng đỗ, xin Trương Chân Nhân dâng sớ, xuất hồn lên xem bảng trời. Thần phê rằng: “Người này số phận đáng lẽ đỗ đạt, nhưng do lén lút với người thím mà bị mất sạch”. Chân Nhân hoàn hồn, nói với chàng ta lời ấy. Chàng học trò bảo là không có, bèn tự soạn sớ để biện luận. Thần lại phê: “Tuy chẳng có chuyện ấy, nhưng thật sự có cái tâm ấy”. Chàng học trò hổ thẹn chẳng kịp, ấy là vì thời trẻ thấy người thím xinh đẹp, ngẫu nhiên động một niệm [tà vạy] vậy!

    Trong niên hiệu Chánh Đức nhà Minh, Triệu Vĩnh Trinh thuở bé gặp bậc dị nhân bảo: “Năm ngươi hai mươi ba tuổi, ắt đậu Giải Nguyên”. Đến khi thi Hương, văn hay tột bậc, quan chủ khảo đã định chấm cho [Vĩnh Trinh] đậu Giải Nguyên từ mấy hôm trước, chẳng ngờ trong kỳ thi hậu trường, [văn bài của Vĩnh Trinh] bỗng phạm sai sót, cho nên chẳng thi đỗ. Tâm Vĩnh Trinh hết sức uất ức, do vậy, cầu nguyện mộng thấy Văn Xương Đế Quân [để thưa hỏi. Trong giấc mộng] Đế Quân nói: “Khoa thi này ngươi vốn đậu Giải Nguyên, nhưng do gần đây ngươi chòng ghẹo tỳ nữ, dụ dỗ con gái nhà hàng xóm. Tuy đều chưa thành chuyện gian dâm, nhưng đã dấy lòng điên đảo, ý dâm vấn víu! Ruộng tâm ngày một tối tăm, tiếng tăm lẫn địa vị đều tiêu; vì thế, bị phạt trừ sạch!” Vĩnh Trinh khóc lóc, sửa lỗi, làm lành, cho khắc in những lời răn dâm để cảnh tỉnh cõi đời. Khoa thi sau, anh ta bèn đỗ Giải Nguyên, làm quan tới chức Phiên Hiến.

    Cảm Ứng Thiên