TRANG CHỦ
Giới Sát Phóng Sanh Tăng Tuổi Thọ
Cứu Cá Được Khỏi Bị Cõi Âm Bắt
Mùa xuân niên hiệu Trinh Quán năm thứ 6 nhà Đường (632), Mã Gia Vận ở Nguỵ Quận, bỗng thấy hai người cưỡi ngựa đến đón anh ta, liền ngã lăn ra đất chết. Đi bái kiến chủ nhân, là Đông Hải Công, muốn mời anh đảm nhiệm chức Ký Thất, Mã Gia Vận thấy học vấn của mình thiển lậu nên từ chối. Đông Hải Công nhiều lần mời mọc, anh ta liền tiến cử Trần Tử Lương thay thế, Mã Gia Vận do đó được sống lại;
Pháp Môn Này Hoàn Toàn Nương Vào Phật Lực
Chân Như pháp tánh chúng sanh và Phật về thể vốn đồng, do mê hay ngộ cách biệt mà khổ - vui khác biệt vời vợi. Vì thế, đức Thế Tôn ta đặc biệt rủ lòng thương xót, tuy trong trần điểm kiếp trước đã sớm thành Phật đạo, lại vận dụng lòng Bi Đồng Thể, khởi lòng Từ Vô Duyên, chẳng lìa cõi Tịch Quang, thị hiện sanh trong đời trược, xuất gia tu hành, thành Đẳng Chánh Giác, cứu vớt những kẻ mê muội cùng lên bờ giác, thuyết pháp bốn mươi chín năm, giảng kinh hơn ba trăm hội.
Trúc Báo Bình An - Ngã Sông Được Cứu
Trần Thường Nga, năm nay 78 tuổi, trí nhớ rất tốt, cây cỏ nào có công dụng gì cô đều biết rõ. Lòng tin Phật của cô thì miễn bàn. Tôi hỏi cô sao cô tin thế, có cảm ứng gì không ? Cô kể :
- 10 năm trước, mới quy y Tam bảo, một hôm cô nằm mộng thấy một cô mặc áo trắng đưa cho cô một cành trúc bảo :
- Cho con cành trúc này để đi trị bệnh.
Chết Đoạ Thân Rắn, Sám Hối Được Độ
Con gái cư sĩ Tào Lỗ Xuyên ở Tô Châu, gả cho nhà họ Văn, có một con rắn đuổi theo con chim bồ câu vào nhà, người nhà đánh chết con rắn. Qua mấy ngày sau, rắn nhập vào con gái Tào Lỗ Xuyên nói tiếng người rằng: “Ta ngày xưa là thái thú Kinh Châu, Hầu Cảnh làm phản, đuổi theo ta, ta chết trận bên bờ sông. Cha mẹ vợ con ta không biết có bình an không?”
Bàn Về Nhân Quả Là Căn Bản Của Thánh Giáo Nho Và Thích
Nhân quả báo ứng là phương tiện lớn lao để bình trị thiên hạ, độ thoát chúng sanh của thánh nhân thế gian lẫn xuất thế gian, nhưng thế nhân chẳng suy xét, đối với lời dạy của nhà Phật phần nhiều bài xích đủ cách, hoặc cho là nghĩa lý thiển cận rồi gạt phăng qua một bên, cậy vào Thế Trí Biện Thông của chính mình, chìm đắm dài lâu trong chốn tà kiến nhơ bẩn.
Khi Thuốc Men Không Còn Công Hiệu Nữa, Hết Sức Thành Khẩn Cầu Cứu Đức Phật A Di Đà Có Công Hiệu Mạnh Nhất
Phần đông khi người ta sắp chết thì hô hấp rất khó khăn. Nếu đang ở trong ở bệnh viện thì bác sĩ sẽ đút một ống vào miệng hoặc vào mũi, vô khí quản đến phổi để duy trì sự hô hấp. Đến lúc nguy cấp thì đẩy vào phòng có y tá túc trực thường xuyên để theo dõi bệnh nhân. Có khi dùng dưỡng khí chụp vào mũi để giúp cho bệnh nhân thở. Khắp nơi trên thân thể chỗ nào có thể đút ống vào thì cũng đều đút ống, thí dụ đường tiểu thì đút ống vào để thông tiểu, miệng thì đút ống vào để dẫn thức ăn vào bao tử
Trì Trai Khỏi Họa, Phá Giới Đền Báo
Trì Trai Khỏi Họa, Phá Giới Đền Báo
Nguỵ Ứng Chi ở Côn Sơn, là cháu trai của Nguỵ Tử Thiều. Mùa xuân năm Canh Ngọ niên hiệu Sùng Trinh (1630), anh ta ở cùng với Nguỵ Tử Thiều, bỗng nằm mộng vừa khóc vừa niệm Phật. Nguỵ Tử Thiều kinh ngạc hỏi nguyên do, anh ta nói: “Con mộng thấy xuống âm phủ, thấy một vị quan mang sổ sanh tử đến, tên con trong sổ treo cổ chết, dưới chú thích
Danh Hiệu Di Ðà Chính Là Bổn Giác Lý Tánh Của Chúng Sanh
Nếu như ngờ rằng Niệm Phật sao lại có công đức như thế? Hãy nên biết: Do Năng Niệm, Sở Niệm đều là Thật Tướng vậy. Sách Di Ðà Yếu Giải giảng:
“Quang là theo chiều ngang chiếu khắp mười phương. Thọ là theo chiều dọc khắp cả ba đời. Ngang dọc hỗ tương đều là pháp giới thể. Ðem cả cái Thể ấy làm thành thân và cõi của Phật Di Ðà, cũng đem cả cái Thể ấy làm thành danh hiệu Di Ðà.
Chớ Cho Việc Lành Nhỏ Mà Không Làm
Bắt Trùng Nuôi Cá Vàng, Chết Thọ Khổ Báo
Thời Minh mạt, Tiết Tử Lan ở Vô Tích thích nuôi cá vàng, thường bắt trùng đỏ cho cá ăn, trùng đỏ bị giết nhiều không thể tính đếm. Sau anh ta mắc một loại bệnh kỳ quái, gãi khắp người, rồi ném vứt. Anh ta nói: “Có vô số con trùng đỏ bò khắp trên thân”. Sau đau đớn không chịu nổi, lở loét toàn thân rồi chết.
Thành Tựu Một Người Vãng Sanh Chính Là Thành Tựu Một Chúng Sanh Thành Phật
Sa Bà là cõi khổ sở cùng cực, vì thế cõi này thuộc về quán trọ trên đường lữ thứ; An Dưỡng là chốn vui sướng tột bậc, vốn là quê nhà sẵn có. Nhưng do chúng sanh mê muội chưa ngộ, bèn cứ khăng khăng coi quán trọ là quê nhà, chẳng biết có trụ xứ thanh tịnh an ổn tột bậc do cha ông đã tạo dựng. Do vậy, khởi tham - sân - si, tạo giết - trộm - dâm, luân hồi trong sáu nẻo,
Lời Phật Lời Tổ
Yếu đạo để ra khỏi sinh tử, không gì hơn vãng sinh Tịnh Độ. Hạnh tu để vãng sinh Tịnh Độ tuy nhiều, không gì hơn Xưng Danh. Vì đó là hạnh của Di Đà Bổn Nguyện. Bởi vậy Hòa Thượng Thiện Đạo dạy rằng:
"Kinh VÔ LƯỢNG THỌ chép: "Khi tôi thành Phật, nếu mười phương chúng sinh xưng danh hiệu của tôi, dù chỉ mười lần mà không được vãng sinh thì tôi chẳng ở ngôi Chánh Giác". Đức Phật kia hiện tại thế thành Phật. Nên biết rằng Bổn Nguyện Trọng Thệ chẳng hư dối. Chúng sinh xưng niệm, tất nhiên được vãng sinh." Do đó ngoài xưng danh không cần quán tưởng gì khác.
Hiểu và tin như trên, lâm chung chắc chắn Phật lai nghinh. Nếu bình thường đã xưng danh tích lũy công đức thì dù cho lúc lâm chung không xưng được Phật danh vẫn quyết định vãng sinh.
Pháp Nhiên Thượng Nhân
Hoan Hỷ Kết Pháp Duyên
Phương Pháp Hành Trì
Các Bài Pháp Trọng Yếu
Các Bài Pháp Nổi Bật
Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người
Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng
Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!
Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi
Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
- Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
- A Nan thưa hỏi.
- Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.
Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha
Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự
Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.
Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...
Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
(năm Dân Quốc 20 -1931)
Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.
Hương Báu Xông Khắp
Chánh kinh:
Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.
Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!
Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']
Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.
Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!
Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới
Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực!
Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận
Chánh kinh:
Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.
Gia Ngôn Lục
Khinh mạn vô căn cứ thì là Hư (虛). Xằng bậy đặt chuyện nói xấu, miệt thị là Vu (誣). Dùng quỷ kế gạt gẫm người khác là Trá (詐). Dùng những cách thức dối đời trái lẽ thì gọi là Ngụy (偽). Nói tách ra thì là bốn điều, nói gộp lại sẽ là ‘chẳng chân thành’. “Thành” là đạo của trời, suy nghĩ chân thành là đạo của người. Nay bỏ lòng thành, noi theo hư vu trá ngụy, chẳng phải là trái nghịch đạo trời, đánh mất đạo người hay sao? Cái tâm ấy quá nhọc nhằn, chuyện ấy quá nguy hiểm, chính là tướng trạng bạc phước nhất trong thiên hạ! Chẳng vào tam ác đạo thì sẽ đi về đâu?
Đời Thanh, Tôn Đình Thuyên ở Ích Đô là người chất phác, chẳng phù phiếm. Vì thế, Thanh Thế Tổ (vua Thuận Trị) từng gọi ông ta là Tôn Lão Thật (ông Tôn thật thà). Mỗi khi chức vị Thượng Thư ở các bộ bị khuyết, vua liền bảo: “Vẫn là dùng Tôn Lão Thật [điền vào đó]”. Do ba lần gọi Tôn Lão Thật như thế, ông được phong làm Tể Tướng. Thật thà có bao giờ khiến cho người ta bị lầm lỡ đâu nhỉ?
Cảm Ứng Thiên