TRANG CHỦ
Phước - Họa Từ Giới Dâm - Tà Dâm
Nói chung, dâm niệm bắt nguồn từ hiếu sắc. Muốn dứt cội rễ lòng dâm, trước hết, phải giữ sắc giới nghiêm ngặt. Hễ hiếu sắc, ắt sẽ tham dâm, ắt thân ta bất chánh. Hễ đối trước bóng sắc mềm mại mê người, chẳng thể tự khống chế, ắt phần nhiều sẽ bị kẻ khác kiềm chế. Do vậy, sẽ cư xử theo lẽ tư tình, phế trừ hiếu hữu! Vứt bỏ cha, mẹ, anh, em, chẳng hề đoái hoài! Ngoại trừ chuyện ham muốn điều này ra, mọi chuyện đều mơ màng, không hiểu biết! Do vậy, đối với thê, thiếp, con cái, chẳng bận tâm kềm cặp, răn ngừa, mặc cho chốn buồng thêu rối loạn, uế tạp.
Niệm Phật Chẳng Dừng, Trên Hòm Nở Hoa Sen
Niệm Phật chẳng dừng, trên hòm nở Hoa sen.
Vào triều đại nhà Minh, ở đất Việt có ông Thái Liên Hoa, là người chất phát hồn hậu suốt đời, chẳng có tài năng gì, nhưng ngày đêm lại chuyên cần niệm Phật, không biết mỏi mệt, chẳng hề dừng nghỉ. Sau khi ông mất, trên quan tài bỗng xuất hiện một đóa hoa sen. Mọi người quen biết xung quanh thấy thế vừa kinh ngạc vừa tán thán, do sự kiện này mới gọi ông là Thái Liên Hoa vậy.
Hãy Nên Khiêm Tốn Náu Mình
Đọc thư ông gởi đến, văn từ lẫn ý nghĩa đều hay, không thể thay đổi được, nên chẳng ghi lời phê. Ông hai mươi mốt tuổi, biết làm văn làm thơ, chính là đời trước có thiện căn, nhưng hãy nên khiêm tốn náu mình, đừng cậy thông minh khinh người, học vấn càng rộng rãi, càng cảm thấy không đủ thì sự thành tựu sau này sẽ khó thể suy lường được! Mười năm trước, pháp sư Đế Nhàn có một đồ đệ tên Hiển Ấm là người cực thông minh, xuất gia năm mười bảy, mười tám tuổi, nhưng khí lượng quá nhỏ, không chịu thua kém một chút nào!
"Nghe Danh Đắc Nhẫn"
Kinh dạy trông thấy cây Bồ Ðề sẽ đắc Nhẫn. Ðoạn trên nói đủ cả sáu căn, đoạn này chỉ nói mình Nhãn Căn; đó là chỉ lấy Nhãn Căn làm đại biểu cho các căn khác. Việc trông thấy cây liền đắc Nhẫn chính là kết quả của nguyện thứ bốn mươi “từ nơi cây thấy các cõi Phật” và nguyện bốn mươi bảy “nghe danh đắc Nhẫn”.
Sách Hội Sớ bảo: “Ngửa xem cây Ðạo Tràng chính là biểu tượng của quả Chánh Giác viên mãn, còn danh hiệu chính là thật thể của bổn nguyện thành tựu.
Cầu Siêu Cho [Quyến Thuộc,] Cha Mẹ, Chỉ Mong Họ Được Vãng Sanh Tây Phương
Cầu siêu cho cha mẹ, chỉ mong họ được vãng sanh
Người tu Tịnh nghiệp lấy lòng tin chân thành, nguyện thiết tha làm gốc. Nếu niệm đến mức nhất tâm bất loạn thì rất tốt. Chớ nên nghĩ rằng “chưa đạt được nhất tâm bất loạn sẽ chẳng thể vãng sanh!” Nếu thường giữ ý tưởng ấy, đắc [nhất tâm] thì được. Nếu không đắc thì do thường giữ ý nghĩ “chẳng được vãng sanh” nên chẳng tương ứng với Phật!
Buông Bỏ Những Vọng Tưởng Chấp Trước Như Đổ Bỏ Rác Bẩn, Để Tận Hưởng Bản Tánh Thanh Tịnh Tự Tại
Vọng tưởng chấp trước là rác bẩn!
“Vui vẻ không buồn lo, gọi là Phật.” Trước đây khi còn ở Học Viện Y Học, chúng tôi đã từng thảo luận qua câu này. Có một vị đồng học bảo: “Điều này không có gì kỳ diệu đặc biệt! Tôi cũng làm được. Tôi bây giờ vui vẻ không lo buồn, vậy hiện tại tức là Phật rồi! ”
“Chẳng Bằng Thấy Phật”
Đời Tống, cha mẹ của Triệu Cư Tiên tuổi đã ngoài chín mươi. Tánh tình [Cư Tiên] rất nghiêm túc, cẩn trọng. Vợ chồng Cư Tiên phụng dưỡng [song thân] siêng năng, cẩn trọng, dốc lòng hiếu hạnh. Hằng ngày thắp nhang cầu xin cha mẹ khỏe mạnh, tìm đủ mọi cách khiến cho cha mẹ vui vẻ trong lúc xế bóng mới thôi! Thượng Đế thấy tâm ý ông chuyên nhất, thưởng cho ông bảy con trai, ba rể đều đỗ đạt cao. Vợ chồng Cư Tiên đều chứng quả thành tiên.
Người Niệm Phật Để Cầu Nguyện Vãng Sanh Được Sự Hộ Niệm Tăng Thượng Duyên Trong Hiện Đời
Trong Quán Niệm Pháp Môn Đại sư cũng xác minh rằng, người niệm Phật có thể tiêu trừ tai họa và tăng thêm tuổi thọ, đoạn văn ấy như sau:
“Người xưng niệm danh hiệu đức Phật A-di-đà để cầu nguyện vãng sanh, thì đời này sẽ được tăng thêm tuổi thọ và không gặp phải chín loại chết bất đắc kỳ tử (Cửu hoạnh)”
Con Niệm Phật, Cha Mẹ Được Vãng Sanh
Đã vãng sanh, trở về độ cho Mẹ
Vào thời đại Nam Triều, đời nhà Lưu Tống, có tiểu thư con của Ngụy Thế Tử, là người ở Lương Quận (tức khu vực Hiệp Phì phía Đông Bắc tỉnh An Vi). Thân phụ và thân huynh đều tu pháp Niệm Phật, tiểu thư cũng tha thiết tu tập cầu vãng sanh. Vào ngày nọ, tiểu thư lâm bệnh rất nặng, mê man nhiều ngày mà không chết. Bảy ngày sau bỗng nhiên tỉnh lại, liền lên ngồi trên tòa cao tụng Kinh Vô Lượng Thọ.
Nếu Có Thể Chất Phác Niệm Phật Thì Nương Theo Nguyện Thuyền Của Phật, Trở Về Quê Hương Cực Lạc Là Điều Có Thể Đoán Chắc
Muốn học Phật phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành thì mới được. Chẳng thể làm hiền nhân, thiện nhân trong thế gian, làm sao được lợi ích chân thật nơi Phật pháp? Mẹ ông đã ăn chay trường niệm Phật, hãy nên đem tông chỉ Tịnh Độ và những nghĩa lý tu trì quan trọng kể cho mẹ ông nghe, ngõ hầu mẹ lẫn con cùng sanh về Liên Bang.
Lời Phật Lời Tổ
Yếu đạo để ra khỏi sinh tử, không gì hơn vãng sinh Tịnh Độ. Hạnh tu để vãng sinh Tịnh Độ tuy nhiều, không gì hơn Xưng Danh. Vì đó là hạnh của Di Đà Bổn Nguyện. Bởi vậy Hòa Thượng Thiện Đạo dạy rằng:
"Kinh VÔ LƯỢNG THỌ chép: "Khi tôi thành Phật, nếu mười phương chúng sinh xưng danh hiệu của tôi, dù chỉ mười lần mà không được vãng sinh thì tôi chẳng ở ngôi Chánh Giác". Đức Phật kia hiện tại thế thành Phật. Nên biết rằng Bổn Nguyện Trọng Thệ chẳng hư dối. Chúng sinh xưng niệm, tất nhiên được vãng sinh." Do đó ngoài xưng danh không cần quán tưởng gì khác.
Hiểu và tin như trên, lâm chung chắc chắn Phật lai nghinh. Nếu bình thường đã xưng danh tích lũy công đức thì dù cho lúc lâm chung không xưng được Phật danh vẫn quyết định vãng sinh.
Pháp Nhiên Thượng Nhân
Hoan Hỷ Kết Pháp Duyên
Phương Pháp Hành Trì
Các Bài Pháp Trọng Yếu
Các Bài Pháp Nổi Bật
Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người
Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng
Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!
Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi
Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
- Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
- A Nan thưa hỏi.
- Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.
Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha
Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự
Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.
Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...
Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
(năm Dân Quốc 20 -1931)
Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.
Hương Báu Xông Khắp
Chánh kinh:
Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.
Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!
Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']
Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.
Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!
Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới
Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực!
Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận
Chánh kinh:
Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.
Gia Ngôn Lục
Khinh mạn vô căn cứ thì là Hư (虛). Xằng bậy đặt chuyện nói xấu, miệt thị là Vu (誣). Dùng quỷ kế gạt gẫm người khác là Trá (詐). Dùng những cách thức dối đời trái lẽ thì gọi là Ngụy (偽). Nói tách ra thì là bốn điều, nói gộp lại sẽ là ‘chẳng chân thành’. “Thành” là đạo của trời, suy nghĩ chân thành là đạo của người. Nay bỏ lòng thành, noi theo hư vu trá ngụy, chẳng phải là trái nghịch đạo trời, đánh mất đạo người hay sao? Cái tâm ấy quá nhọc nhằn, chuyện ấy quá nguy hiểm, chính là tướng trạng bạc phước nhất trong thiên hạ! Chẳng vào tam ác đạo thì sẽ đi về đâu?
Đời Thanh, Tôn Đình Thuyên ở Ích Đô là người chất phác, chẳng phù phiếm. Vì thế, Thanh Thế Tổ (vua Thuận Trị) từng gọi ông ta là Tôn Lão Thật (ông Tôn thật thà). Mỗi khi chức vị Thượng Thư ở các bộ bị khuyết, vua liền bảo: “Vẫn là dùng Tôn Lão Thật [điền vào đó]”. Do ba lần gọi Tôn Lão Thật như thế, ông được phong làm Tể Tướng. Thật thà có bao giờ khiến cho người ta bị lầm lỡ đâu nhỉ?
Cảm Ứng Thiên