TRANG CHỦ
Sáu Chữ Hồng Danh Là Viên Nhất Trong Những Pháp Viên, Đốn Nhất Trong Những Pháp Đốn, Những Kẻ Tin Tưởng Chẳng Nghi Ngờ [Sáu Chữ Hồng Danh Này] Thì Mười Người Tu Cả Mười Được Sanh
Sách Bình Giải dẫn sách Lục Yếu: “Lợi chân thật chỉ cho danh hiệu này, tức là Phật trí”.
Sách Bình Giải viết thêm: “Nay chân thật là Phật trí danh hiệu. Ngài Thiện Ðạo cho rằng Pháp Tạng trong lúc tu nhân thành tựu chân thật nên bảo là bổn nguyện chân thật. Nói rộng ra thì là năm nguyện chân thật. Nói gọn lại thì chỉ là một câu danh hiệu. Vì vậy, ta biết rằng cái chân thật này bao gồm giáo, hạnh, tín, chứng”.
Một Pháp Niệm Phật Chính Là Lấy Hồng Danh Vạn Đức Của Như Lai Làm Duyên
Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực!
Không Tin Thì Thôi, Mà Tin Thì Không Nghi Ngờ
Ở tỉnh Giang Tô, huyện Cao Thuần, xóm Đông, làng Phụng Sơn, có Cư sĩ Châu Bảo Hoa giới thiệu tại đây có một giáo viên Trung học tên là Hàn Hữu Tài, vào năm ông 41 tuổi, bà mẹ và em của ông đều đã quy y Tam Bảo, ông vẫn không tin tưởng nhưng không phỉ báng. Sau đó mấy tháng, ông bị khối u trong bao tử đau đớn vô cùng, tánh mạng có thể chấm dứt bất cứ lúc nào. Qua đây, ông đột nhiên tỉnh ngộ.
Bệnh Nặng Kiệt Sức, Xả Bỏ Tạp Hạnh
Trần Thúy Lan, nữ, 68 tuổi, là người Tuyên Thành, tỉnh An Huy, được đưa làm dâu từ nhỏ, không biết chữ. Ba mươi hai tuổi ở góa, tự mình đơn độc nuôi 4 đứa con, nếm trải đủ mọi cay đắng cuộc đời. Điều đó cho thấy bà là người can cường, kiên nhẫn vô song.
Năm 1990, bà Quy Y Tam Bảo, bà tiêu dùng tiết kiệm, siêng cúng dường bố thí, tinh tấn kiền thành, ít ai bì được.
Ngàn Người Tin, Ngàn Người Sanh, Vạn Người Tin, Vạn Người Sanh
Sách Giáo Hạnh Tín Chứng giảng câu “văn bỉ Phật danh” (nghe danh hiệu Phật ấy) như sau: “Chữ Văn (聞) có nghĩa là chúng sanh nghe gốc ngọn sanh khởi của lời Phật nguyện mà chẳng có tâm nghi thì đó mới là Văn”. Nghe danh hiệu được phước nên có thể phát sanh lòng tin thanh tịnh. “Thanh tịnh tâm” chính là lòng tin chẳng nghi, còn có nghĩa là lòng tin trong sạch chẳng cấu nhiễm.
Chuyện Vãng Sanh Của Tỳ Kheo Ni Pháp Quang
Tỳ kheo Ni Pháp Quang, thế danh Đặng Nhân Chân, người thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc.
Năm 1984, cô đến đảnh lễ Ni Sư Thượng Tánh Hạ Diệu xin xuất gia. Năm 1986 thọ giới Cụ Túc.
Vào 0 giờ 45 phút ngày 07 tháng 4 năm 2004 (tức Âm lịch ngày 18 tháng 02 nhuần), an tường xả bỏ báo thân, vãng sanh Cực Lạc, hưởng thọ 82 tuổi.
Chỉ Cần Có Đủ Lòng Tin Chân Thành, Nguyện Thiết Tha Thì Đều Có Thể Cậy Vào Phật Từ Lực, Đới Nghiệp Vãng Sanh
Trước kia, ông Trần Dự Đường gởi thư đến cho biết có sáu người thiện nữ xin quy y, nhờ gởi thư về cho các hạ để chia ra giao [cho những người ấy]. Lại nói: bà Thích nhà họ Nguyễn quy y lần trước, pháp danh Đức Chánh chính là phu nhân của các hạ. Biết cư sĩ học Phật nhiều năm, người nhà đều được cảm hóa, thật đáng bội phục. Chẳng biết cư sĩ có tin tưởng chắc chắn nơi pháp Tịnh Độ hoành siêu hay chăng?
"Hãy Niệm Phật Đi!"
Nhà lão Cư sĩ Vương ở khu Thanh Sơn, thị trấn Bao Đầu, Nội Mông Cổ, có nuôi một con két lông xanh mỏ đỏ, niệm Phật đã được 10 năm, vừa mới vãng sanh. Sau vãng sanh mười mấy hôm cho đến lúc đi hỏa thiêu, thân nó vẫn mền mại, lông nó xanh mướt bóng mượt. Sau khi hỏa thiêu, nhặt được một cái lưỡi còn nguyên vẹn, hơn 20 viên xá lợi hoa trắng tinh lẫn tí màu đỏ, vài mươi viên xá lợi tử và kiên cố tử và một số lông vũ hóa cứng.
Bản Nguyện An Tâm, Mắc Bệnh Nguy Vẫn Vui Vẻ
Lão cư sĩ Diệp Thành Phấn, 72 tuổi, người Thiên Tân. Lúc trẻ bà ở góa nuôi 2 con, một gái một trai, không nơi nương tựa, trải qua biết bao gian nan cực khổ. Bà chịu đựng và cảm nhận sâu sắc sự đau khổ của đời người. Khi nghe Pháp Phật bà mới biết, tất cả cảnh giới khổ vui của đời người đều do nhân duyên quả báo, nghiệp lực dẫn dắt luân hồi không ngừng.
Tín Nguyện Đầy Đủ, Chết Vì Tai Nạn Xe Không Trở Ngại Việc Vãng Sanh
Cư sĩ Ngưu Vĩnh Quỳnh ở huyện Phùng Tiết, thành phố Trùng Khánh, kể lại việc vãng sanh của con trai bà là Mã Bồi Tình:
Con trai tôi sinh ngày 09 tháng 12 năm 1982. Lúc sanh nó tôi đau đớn không chịu nổi. Có người khuyên tôi niệm Phật. Khi tôi xưng danh hiệu Phật thì sự đau đớn giảm gần như hết hẳn, cho đến đứa con suôn sẻ chào đời. Từ đó tôi bắt đầu đi theo con đường học Phật.
Lời Phật Lời Tổ
Yếu đạo để ra khỏi sinh tử, không gì hơn vãng sinh Tịnh Độ. Hạnh tu để vãng sinh Tịnh Độ tuy nhiều, không gì hơn Xưng Danh. Vì đó là hạnh của Di Đà Bổn Nguyện. Bởi vậy Hòa Thượng Thiện Đạo dạy rằng:
"Kinh VÔ LƯỢNG THỌ chép: "Khi tôi thành Phật, nếu mười phương chúng sinh xưng danh hiệu của tôi, dù chỉ mười lần mà không được vãng sinh thì tôi chẳng ở ngôi Chánh Giác". Đức Phật kia hiện tại thế thành Phật. Nên biết rằng Bổn Nguyện Trọng Thệ chẳng hư dối. Chúng sinh xưng niệm, tất nhiên được vãng sinh." Do đó ngoài xưng danh không cần quán tưởng gì khác.
Hiểu và tin như trên, lâm chung chắc chắn Phật lai nghinh. Nếu bình thường đã xưng danh tích lũy công đức thì dù cho lúc lâm chung không xưng được Phật danh vẫn quyết định vãng sinh.
Pháp Nhiên Thượng Nhân
Hoan Hỷ Kết Pháp Duyên
Phương Pháp Hành Trì
Các Bài Pháp Trọng Yếu
Các Bài Pháp Nổi Bật
Chỉ Giữ Tấm Lòng Tốt Lành, Nói Lời Tốt Lành, Làm Chuyện Tốt Lành, Nhất Tâm Niệm Phật, Lần Lượt Khuyên Người
Thư trả lời cư sĩ Úc Trí Lãng
Vãng sanh Tịnh Độ hoàn toàn cậy vào tín - nguyện
Tục ngữ nói: “Phú ông bất tri bần nhân chi khổ, tráng phu bất tri lão nhân chi khổ” (Phú ông chẳng biết nỗi khổ kẻ nghèo, người khỏe mạnh chẳng biết nỗi khổ của người già). Ông cho rằng Quang cự tuyệt chẳng qua là để tịnh tu mà thôi ư? Ông chẳng biết thật ra là vì mục lực lẫn tinh thần đều chẳng đủ. Chỉ nội chuyện đọc thư ông gởi đến và để viết thư trả lời thì kiếng đeo mắt lẫn kiếng cầm tay (kính lúp) đều phải dùng đến hết, mới xem, mới viết được!
Tích Công Lũy Đức Vô Lượng Vô Biên, Được Tự Tại Trong Hết Thảy Pháp, Chẳng Thể Dùng Ngữ Ngôn, Phân Biệt Để Biết Được Nổi
Phẩm 9. Viên Mãn Thành Tựu
Phẩm thứ chín này có tên là Viên Mãn Thành Tựu. Từ phẩm thứ tư đến phẩm thứ tám đều nói hạnh nguyện của Pháp Tạng Ðại Sĩ lúc tu nhân; từ phẩm này trở đi, kinh nói về quả đức thành tựu. Nội dung phẩm này gồm ba phần:
- Phật khen ngợi Pháp Tạng nhân viên quả mãn.
- A Nan thưa hỏi.
- Thế Tôn đáp thẳng vào câu hỏi.
Pháp Niệm Phật Khẩn Yếu Nhất Là Có Lòng Tin Chân Thật, Nguyện Thiết Tha
Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự
Người niệm Phật hãy nên cung kính, chí thành, từng câu từng chữ trong tâm niệm cho rõ ràng, rành mạch, miệng niệm cho rõ ràng rành mạch. Nếu làm được như thế, dẫu chẳng thể hoàn toàn không có vọng niệm, nhưng cũng chẳng đến nỗi quá đáng. Có lắm kẻ chỉ mong lẹ, mong nhiều, thuận miệng niệm ào ào, cho nên không có hiệu quả! Nếu có thể nhiếp tâm thì mới gọi là người niệm Phật thật sự. Đại Thế Chí Bồ Tát đã ví dụ “như con nhớ mẹ”, trong tâm con chỉ nghĩ đến mẹ, những cảnh khác đều chẳng phải là chuyện trong tâm chính mình. Vì thế có thể cảm ứng đạo giao.
Chẳng Bị Xoay Chuyển Bởi Những Thứ Tri Kiến Ấy, Lại Còn Giữ Vẹn Luân Thường, Trọn Hết Bổn Phận, Dứt Lòng Tà, Giữ Lòng Thành...
Thư trả lời cư sĩ Hùng Huệ Dực (trích lục)
(năm Dân Quốc 20 -1931)
Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao?
Cha mẹ ông tuổi đã cao, đúng là lúc nên mềm mỏng khuyên họ ăn chay niệm Phật, cầu sanh Tây Phương. Đã biết đến pháp môn này, nỡ nào để cha mẹ ta chẳng được hưởng lợi ích hay sao? Hãy nên làm cho anh em trai, chị em gái, thê thiếp, con cái, họ hàng, bạn bè và hết thảy những người quen biết cùng tu Tịnh nghiệp.
Hương Báu Xông Khắp
Chánh kinh:
Ngã tác Phật thời, hạ tùng địa tế, thượng chí hư không, cung điện, lâu quán, trì lưu, hoa thụ, quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật, giai dĩ vô lượng bảo hương hợp thành. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới. Chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi thành Phật, dưới từ mặt đất, trên đến hư không, cung điện, lầu, quán, ao, suối, cây hoa, tất cả hết thảy vạn vật trong cõi nước đều dùng vô lượng hương báu hợp thành. Hương ấy xông khắp mười phương thế giới. Chúng sanh ngửi thấy đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được vậy, chẳng lấy Chánh Giác.
Sẽ Vĩnh Viễn Không Còn Lo Ngờ Nữa!
Biết tâm vui đạo hết sức chân thành, tha thiết [nên 'cảm ứng đạo giao']
Nhận được thư biết tâm cư sĩ vui đạo hết sức chân thành, tha thiết. Còn những lời khen ngợi Bất Huệ chưa thoát khỏi thói quen thế tục. Quang là một ông Tăng tầm thường, chỉ biết học theo ngu phu ngu phụ chuyên niệm danh hiệu Phật, sao lại khen ngợi quá mức như thế? Như ông quyên góp in bộ An Sĩ Toàn Thư, thật đúng là pháp chí thành tu [thân] tề [gia] trị [quốc] bình [thiên hạ] và đoạn Hoặc chứng Chân liễu sanh thoát tử, mỗi mỗi đều đầy đủ.
Hồng Danh Vạn Đức Chính Là Vô Thượng Giác Đạo Như Lai Đã Chứng Nơi Quả Địa!
Chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới
Pháp môn Niệm Phật cao cả thay! Do một niệm tâm tánh của chúng ta giống như hư không thường hằng bất biến. Tuy thường chẳng biến nhưng niệm niệm tùy duyên, chẳng duyên theo Phật giới sẽ duyên theo cửu giới, chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo lục đạo, chẳng duyên theo nhân thiên sẽ duyên theo tam đồ. Do duyên nhiễm - tịnh bất đồng cho nên quả báo khổ - vui rất khác. Tuy bản thể trọn chẳng biến đổi gì, nhưng Tướng - Dụng cố nhiên khác nhau một trời một vực!
Trụ Chánh Định Tụ; Vui Như Lậu Tận
Chánh kinh:
Ngã tác Phật thời, quốc trung vô bất thiện danh. Sở hữu chúng sanh, sanh ngã quốc giả, giai đồng nhất tâm, trụ ư Định Tụ, vĩnh ly nhiệt não, tâm đắc thanh lương. Sở thọ khoái lạc, do như Lậu Tận tỳ-kheo. Nhược khởi tưởng niệm, tham kế thân giả, bất thủ Chánh Giác.
Lúc tôi làm Phật, trong nước không có danh từ bất thiện. Tất cả chúng sanh sanh trong nước tôi đều đồng một tâm, trụ nơi Ðịnh Tụ, vĩnh viễn thoát khỏi nhiệt não, tâm được thanh lương, hưởng thọ khoái lạc như là Lậu Tận tỳ-kheo. Nếu họ khởi tưởng niệm tham chấp cái thân thì chẳng lấy Chánh Giác.
Gia Ngôn Lục
Khinh mạn vô căn cứ thì là Hư (虛). Xằng bậy đặt chuyện nói xấu, miệt thị là Vu (誣). Dùng quỷ kế gạt gẫm người khác là Trá (詐). Dùng những cách thức dối đời trái lẽ thì gọi là Ngụy (偽). Nói tách ra thì là bốn điều, nói gộp lại sẽ là ‘chẳng chân thành’. “Thành” là đạo của trời, suy nghĩ chân thành là đạo của người. Nay bỏ lòng thành, noi theo hư vu trá ngụy, chẳng phải là trái nghịch đạo trời, đánh mất đạo người hay sao? Cái tâm ấy quá nhọc nhằn, chuyện ấy quá nguy hiểm, chính là tướng trạng bạc phước nhất trong thiên hạ! Chẳng vào tam ác đạo thì sẽ đi về đâu?
Đời Thanh, Tôn Đình Thuyên ở Ích Đô là người chất phác, chẳng phù phiếm. Vì thế, Thanh Thế Tổ (vua Thuận Trị) từng gọi ông ta là Tôn Lão Thật (ông Tôn thật thà). Mỗi khi chức vị Thượng Thư ở các bộ bị khuyết, vua liền bảo: “Vẫn là dùng Tôn Lão Thật [điền vào đó]”. Do ba lần gọi Tôn Lão Thật như thế, ông được phong làm Tể Tướng. Thật thà có bao giờ khiến cho người ta bị lầm lỡ đâu nhỉ?
Cảm Ứng Thiên